Chủ Nhật, 10 tháng 9, 2023

 

Nghệ thuật chôn sống

Tuấn Khanh

Không lâu sau khi có lá thư được cho là của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường phát đi, khẳng định rằng ông không có mặt ở Huế vào Xuân Mậu Thân 1968, sự kiện này đã làm bùng phát nhiều lời bàn trên các trang mạng, báo chí…

Thành phố Huế tan hoang hôm 25 Tháng Hai, 1968, sau khi Cộng Sản Bắc Việt tấn công trong Tết Mậu Thân. (Hình: Bob Wildau/AFP via Getty Images)

Cũng có không ít người đứng ra, nói rằng nếu như vậy thì cần giải oan cho ông Tường khỏi vũng máu nhầy nhụa của cuộc thảm sát thường dân ở Huế. Cuộc thảm sát mà không có sự che đậy nào có thể làm mất hết mùi tanh của máu, của nỗi đau và sự kinh hoàng về cái gọi là “quân cách mạng” vào thời điểm đó, ở Huế.

Ghê sợ nhất, từ các bài tường trình lưu trữ của hãng AP, của ABC News… và từ cả các quyển sách ghi lại từ các phóng viên và người trong cuộc lúc đó, là chuyện kể về các màn chôn sống đồng loại. Vì lý do gì đó, những người bị chôn sống có dây kẽm đâm xuyên qua chuỗi các lòng bàn tay để tránh chuyện ai đó có thể chạy thoát. Thống kê không đầy đủ từ báo chí nước ngoài nói rằng có khoảng 5,000 thường dân đã chết im lặng, chết tức tưởi như vậy, khi tay không có vũ khí và cũng không có ý định kháng cự với “quân cách mạng.”

Một người bạn trên Facebook hỏi rằng tôi có ý kiến ra sao về lá thư của ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, tôi đã trả lời rằng mình không cần phải nói thêm gì nữa, vì đã có quá nhiều lời bình luận về chuyện này trên trang của tôi, từ những người rất hiểu biết. Mục đích chính viết xuống của tôi, cũng không phải là tranh cãi với ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, mà chỉ là muốn làm đậm thêm sự thật.

Trong những ngày rầm rĩ cái gọi là “chiến thắng Mậu Thân” của báo đài nhà nước, có những ngôn luận rất chủ đích, được tung ra trên mạng xã hội rằng những cái chết của đồng bào ở Huế là bịa đặt của bọn phản động. Tôi được nhìn thấy những đường dẫn, những bài viết không được tỏa rộng lắm – cũng như không được hưởng ứng nhiều, nói rằng “bọn ba que lại dựng lên những chuyện này.” Những đường dẫn ấy, có kèm cả những bức hình người dân Huế sau đại nạn ấy đang đào bới tìm xác người thân bị chôn sống. Chắc chắn, lớp trẻ dại tham gia làm tuyên truyền viên không thể tự mình nghĩ ra những cách nói ngu xuẩn và điên cuồng như vậy, nếu không được hướng dẫn như vậy từ những chính trị viên của chúng.

Vì thế, không có gì xác minh câu chuyện thảm sát Huế 1968 từ “quân cách mạng” là có thật – thật đến từng chữ, như cách nhà văn Nguyễn Quang Lập đã mô tả về hồi ký của ông Nguyễn Đắc Xuân – bằng cách đặt lên mọi sự tuyên truyền khốn nạn, bằng chính bức thư xin lỗi của ông Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Tôi buộc phải viết ra, phải làm vậy, vì không muốn đồng bào tôi – dù họ chưa hề là người tôi quen biết – lại bị âm mưu đen tối nào đó muốn chôn sống một lần nữa, sau nửa thế kỷ bị che đậy, bị nói ngược, bị điêu ngoa xảo trá. Nhất là sau cái chết của ông Tường, gói lại mọi sự kiện lịch sử mà ông cũng có phần tham gia dựng lên những bức màn.

Nhưng chung quanh câu chuyện của ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, người mà đã nửa thế kỷ khốn khổ, vì luôn bị người đời gọi tên và mỉa mai không thôi, vẫn còn chuyện để bàn.

Có lẽ ông Tường đã có nhiều mùa xuân chồng chất những lời nguyền rủa, khiến đã đến tuổi thiên mệnh, ông buộc phải lên tiếng vì muốn thôi phải chịu đựng những hạn kỳ chua chát của dư luận như vậy.

Năm mươi năm không là ít. Năm mươi năm là một đời người, thậm chí 50 năm có thể là thời gian chung cuộc của một chế độ hay một niềm tin.

Ấy vậy mà 50 năm qua, những đồng chí của ông Tường chưa bao giờ lên tiếng chính thức cho ông, để ông thoát khỏi câu chuyện tự nhận là người có mặt trong những đêm dã thú ở Huế 1968. Thậm chí những người đã vỗ vai, bắt tay khen ngợi ông Tường, đặt ông vào chức tổng thư ký Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ và Hòa Bình Thành Phố Huế, tức lực lượng chịu trách nhiệm lấy danh sách để bắt và xử những người ở Huế vào năm 1968, cũng không ai lên tiếng, nói giúp rằng ông Tường không có mặt trong cuộc thảm sát, như lá tâm thư ông Tường khẩn khoản phân minh.

Hãy tạm gác lại trách nhiệm của ông Tường. Vấn đề trách nhiệm của những người trong “quân cách mạng” ở Huế mới thật đáng nói. Họ đã để lửng lơ câu chuyện của ông Tường với nghi án ấy như một kiểu đẩy mọi tội ác cho ông Tường gánh giùm. Đã vậy, năm 1981, “quân cách mạng” đẩy ông Tường ra phát ngôn trước ống kính quốc tế, lợi dụng tinh thần đắc lực lẫn tính hám danh của ông để khẳng định tội ác. Và như vậy, “họ” đã âm mưu chôn sống ông Tường lần đầu một cách rất hào nhoáng.

Em của ông Tường, ông Hoàng Phủ Ngọc Phan, người được dư luận nói rằng là một kẻ thủ ác không cần bàn cãi vào năm 1968, cũng im lặng. Thật khó mà tìm thấy một bài viết chính danh nào của ông Phan bênh vực về trường hợp người anh của mình. Nói một cách nào đó, nhát xẻng góp phần chôn sống ông Tường, chắc có cả của ông Phan.

Năm 2018, nửa thế kỷ tội ác Mậu Thân 1968, khi truyền thông nhà nước “ăn mừng,” thì dường như ông Tường không thể cùng vui với niềm vui chiến thắng như vậy. Ông phải tự đưa ra bức thư minh oan cho mình. Chỉ có một số ít bạn văn và những người quen biết lên tiếng yểm trợ cho ông. Nhưng mọi thứ lại bị chìm sâu trong tiếng nhạc mừng 50 năm “cuộc tổng tiến công mùa xuân Mậu Thân.” Một lần nữa không có ai trong hệ thống cất lời giúp cho ông Tường.

Thế kỷ của nhân loại hôm nay quả tinh xảo. Chôn sống có thể chỉ một lần để giết chết. Nhưng vẫn có những loại nghệ thuật chôn sống, mà khi nhìn lại đời, mới biết mình lịm dần vì đã tin vào những kẻ đã vỗ vai, bắt tay khen ngợi.

Nhà truyền giáo Ravi Zacharias (1946-2020) từng nói “Thượng Đế không thể giúp cho kẻ xấu quay trở lại làm người tốt, nhưng có thể khiến họ sống mãi, sau khi đã chết.” Sự mập mờ về tội ác lịch sử và trung thành với lựa chọn chính trị của ông Tường, cũng có thể giúp ông sống mãi.

—–
Đọc thêm:
Hoàng Phủ Ngọc Tường, kẻ chối tay không dính máu thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế, qua đời
‘Tại sao tôi bị giết?’
Nghệ thuật chôn sống

 

‘Tại sao tôi bị giết?’

LTS: Nhân cái chết của ông Hoàng Phủ Ngọc Tường và những lời trăng trối muộn màng nửa thế kỷ của ông ta, nhà báo Mạnh Kim trình bày lại vụ thảm sát Tết Mậu Thân 1968 ở thành phố Huế với câu hỏi “Tại sao tôi bị giết?” từ tổng hợp các tài liệu.

Mạnh Kim

Một phụ nữ mang theo đồ đạc chạy khỏi Huế vào ngày 25 Tháng Hai, 1968, trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân do miền Bắc Việt Nam phát động. (Hình: Bob Wildau/AFP via Getty Images)

Như đã biết, ngày 1 Tháng Hai, 2018, ông Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết một bức thư, gửi ông Nguyễn Quang Lập cậy đăng, với nội dung “giải thích” việc ông đã làm gì vào những ngày Mậu Thân kinh hoàng. Tuy nhiên, việc ông Tường có mặt ở Huế hay không thật ra không quan trọng. Ông có mặt hay không thì chiến dịch thảm sát vẫn xảy ra theo đúng kế hoạch sắp sẵn từ trước.

Ông có mặt hay không thì danh sách nạn nhân cần được “tiêu diệt” cũng đã nằm trong túi áo đám sát thủ được phân công đi giết người. Ông có mặt hay không thì đống xương trắng của hàng trăm nạn nhân ở Khe Đá Mài vẫn trơ những hốc mắt kinh ngạc bàng hoàng như thể họ muốn hỏi, vào ngày đó; và muốn được trả lời, sau 50 năm, rằng “Tại sao tôi bị giết?”

“Tại sao tôi bị giết?”

Việc không có mặt ở “hiện trường,” có thể được xem như là yếu tố “ngoại phạm” và là bằng chứng “vô tội,” thật ra là vô nghĩa. “Gây án” với lịch sử, dính dáng trực tiếp hay gián tiếp với lịch sử, không thuộc sự phán xét của một quan tòa. Nó thuộc sự đánh giá của dân tộc và sự phán xét của tòa án lương tâm.

Tôi (MK) có thể cảm nhận được sự dằn vặt của các ông trước những chỉ trích và cáo buộc dính dáng cuộc thảm sát. Tuy nhiên, 50 năm qua, ông Tường (và em trai của ông), cũng như ông Nguyễn Đắc Xuân, đã làm gì để sự thật được đưa ra ánh sáng? Các ông có biết ai là kẻ trực tiếp ra lệnh chiến dịch thảm sát, nếu có, tại sao không “tố giác;” nếu không, tại sao không kêu gọi một cuộc điều tra thủ phạm chóp bu thật sự, thay vì khổ sở thanh minh cho cá nhân mình?

Nếu các ông không có tội thì ai là kẻ có tội và tại sao các ông “chịu tội” thay? Với tư cách những người hoạch định và tham gia chiến dịch, các ông biết những gì? Các ông đã kể lại những gì và còn che giấu những gì? Chưa lần nào, trong bất kỳ bài viết nào khi “hồi tưởng” sự kiện Mậu Thân, các ông giải thích vì sao có những hố chôn tập thể mà nạn nhân đều bị trói ngoặt bằng dây kẽm gai…

Tôi không lên án sự chọn lựa chỗ đứng lịch sử của các ông trong thời điểm đó. Thái độ và sự chọn lựa cách thức để nhìn lại mình của các ông hàng chục năm qua mới là điều cần quan tâm. Tôi không chỉ trích sự chọn lựa quá khứ. Tôi chỉ thắc mắc sự chọn lựa hiện tại và cách nhìn hiện tại khi nhắc lại quá khứ.

Hàng chục năm qua, các ông vẫn chỉ gỡ tội cho cá nhân mình chứ không phải giải oan cho hàng ngàn nạn nhân, tiếp tục nhất mực rằng những “mất mát” đó là “ngoài ý muốn” và Mậu Thân vẫn là một “chiến thắng lịch sử” – như lời lặp đi lặp lại của ông Nguyễn Đắc Xuân. Thái độ hậu chiến và nhãn quan về tội ác chiến tranh của những người như ông Nguyễn Đắc Xuân đã khiến những kẻ hậu sinh như tôi xin được mạn phép thưa rằng, cho tôi gạt qua sự kính trọng cần có đối với người cao niên để thay bằng một cảm giác đối ngược.

Cuộc chiến Việt Nam là một cuộc chiến khốn nạn. Mậu Thân là chiến trường khốn nạn nhất trong cuộc chiến Việt Nam. “Hậu Mậu Thân” không chỉ là những xác người. Hậu Mậu Thân còn có những linh hồn chưa bao giờ được rửa. Hậu Mậu Thân còn có những người chưa bao giờ thật sự muốn rửa linh hồn mình.

Trong bài viết trên chuyên san “Indochina Chronicle” số 33 đăng ngày 24 Tháng Sáu, 1974, Gareth Porter thuộc Đại Học Cornell đã cố chứng minh rằng sự kiện thảm sát Mậu Thân 1968 là màn tuyên truyền của Việt Nam Cộng Hòa lẫn Mỹ. Tuy nhiên, những gì Porter đưa ra là không chính xác và có nhiều chi tiết mâu thuẫn. Sự kiện thảm sát thường dân tại Huế là có thực, một bi kịch khủng khiếp có thực, một câu chuyện đầy nước mắt bi ai và oan ức với những nhân chứng có thực.

Đó là chiến dịch khủng bố kinh khủng nhất lịch sử chiến tranh Việt Nam. Dường như tất cả căn tính ác độc nhất của con người đều hiện ra trong những ngày tang thương này. Một cuộc “tìm diệt” và tàn sát ghê rợn bao trùm toàn bộ thành phố cổ kính, bình lặng và hiền lành. Dường như mọi người đều trở thành sát thủ vô tri và mọi người khác đều trở thành nạn nhân.

Trong quyển “A House in Hue” ấn hành 1968, Omar Eby thuật lại lời kể một nhóm nhân viên thiện nguyện thuộc hệ Tin Lành Mennonite, khi lẩn trốn, đã thấy một số người Mỹ trong đó có một nhà nông học thuộc Cơ Quan Phát Triển Quốc Tế, bị trói ngoặt trên đường ra “pháp trường.”

Năm 1971, trong quyển “Tet!,” ký giả Don Oberdorfer cũng thuật nhiều chi tiết kinh khủng. Ông Stephen Miller, một nhân viên ngoại giao đoàn Hoa Kỳ (lúc đó 28 tuổi), đã bị lôi ra khỏi căn nhà người bạn Việt Nam và bị xử tử trên một cánh đồng. Các bác sĩ người Đức Raimund Discher, Alois Alteköster; cùng vợ chồng Horst-Günther Krainick – đều dạy tại một trường y – cũng bị giết tương tự. Hai cha cố Pháp, Urbain và Guy, cũng bị thấy dẫn đi.

Thi thể Cha Urbain sau đó được tìm thấy, với tay lẫn chân bị trói chặt trước khi bị chôn sống. Thi thể Cha Guy có một viên đạn cắm sau đầu, nằm chết cong queo trong một huyệt mộ cùng 18 nạn nhân khác. Linh Mục Bửu Đồng, một người hiền lành nho nhã nổi tiếng đất cố đô, cũng bị giết. Xác của ông được tìm thấy vào 22 tháng sau, cùng 300 thi thể khác.

Trong cuộc phỏng vấn đài truyền hình WGBH vào Tháng Ba, 1981, ông Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời: “Tôi xin nói tất cả vấn đề khách quan. Cái thứ nhất, là nói riêng về những người bị giết thì trong số đó hiển nhiên là có những người do du kích, do quân đội cách mạng, do phải thi hành bản án tử hình đối với những kẻ mà khi chúng tôi vào nhà để gọi họ ra thì họ bắn đến cùng. Họ bắn đến độ những người chiến sĩ của chúng tôi đã phải bị thương và những người đó thì phải giết tại chỗ. Đấy, trong trường hợp đó, có một viên phó tỉnh trưởng của Huế.

Nó trên lầu nó bắn xuống đến cùng, không đầu hàng. Chỉ có, như vậy là chỉ có một ít trường hợp thôi. Còn một số những trường hợp khác thì chính nhân dân đã căm thù quá lâu… Và đến khi mà cách mạng bùng lên, họ được như là lấy lại cái thế của người mạnh thì họ đi tìm những kẻ đó để trừ, như là trừ những cái con rắn độc mà từ lâu nay, nếu còn sống, thì nó sẽ tiếp tục nó gây tội ác trong chiến tranh… Như vậy là cái giá đó, tôi nghĩ là, nó nhẹ. Nếu ai đã từng theo dõi cuộc chiến tranh thì sẽ thấy từng cái món nợ đó là rất nhẹ. Nó rất gọi là công bằng” (…)

Người dân Huế được người lính Việt Nam Cộng Hòa giúp qua cầu Trường Tiền khi cây cầu bắc qua sông Hương này bị Cộng Sản Bắc Việt phá hoại trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân hồi Tháng Hai, 1968. (Hình: Terry Fincher/Daily Express/Hulton Archive/Getty Images)

Ai là “những cái con rắn độc?” Các bác sĩ người Đức, nhà nông học người Mỹ hay các vị cha đạo người Pháp? Hay là ông Phạm Văn Tường, nhân viên gác cổng bán thời gian cho Phòng Thông Tin Huế? Khi bị “phát hiện,” ông Tường, như mọi người dân hoảng hốt chạy lánh chiến sự, đang trốn cùng đứa con gái 3 tuổi, con trai 5 tuổi và hai đứa cháu. Cả nhà ông đều bị bắn sạch. Một trường hợp khác: Vào ngày thứ năm sau khi chiếm Huế, Việt Cộng “lùa” khoảng 400 đàn ông và thanh niên đến nhà thờ Phú Cam.

Vài người trong số đó đã nằm trong danh sách “có nợ máu với nhân dân.” Họ được nhìn thấy dẫn đi về hướng Nam. Sau đó, thi thể họ chất đống tại Khe Đá Mài… Một số sách, trong đó có “America in Vietnam” (ấn hành 1980) của Gunther Lewy và “Giap” (1993) của Peter MacDonald, đều trích dẫn một tài liệu của Việt Cộng bị tịch thu được đã “thống kê thành tích” việc “trừ khử 1,892 nhân viên chính quyền, 38 cảnh sát và 790 tên ác ôn.” Ai trong số những người bị giết tại Khe Đá Mài nằm trong bảng thống kê này, và ai “ác ôn,” ai vô tội?

Cũng trong cuộc phỏng vấn trên, ông Hoàng Phủ Ngọc Tường nói: “Sau này, trong năm 75, 76, 77, chúng tôi đi làm thủy lợi đó, làm dẫn nước sông Hương đó, tôi đã đào lên những cái nấm mồ mà trong đó gọi là ‘thảm sát Mậu Thân’ thì đầy những người đội mũ tai bèo và mặc áo quần quân giải phóng. Thì đấy là cái sự, tôi nói rằng đấy là cái, cái gọi là cái ranh mãnh của thực dân mới. Nó bắn một mũi tên và được hai mục tiêu. Cái thứ nhất là che giấu tất cả những tội ác mà nó đã làm. Và cái thứ hai, nó đổ tất cả những cái đó cho quân đội cách mạng” (…)

Ở góc nhìn khác, cũng thấy một điều, có “tất cả những tội ác mà nó đã làm” cũng đã được che giấu. Hãy tua lại một đoạn phim tài liệu gần đây: “Đầu Tháng Ba, hai tuần sau khi chiếm được Huế, Thiếu Úy Phil Gioia thuộc Sư Đoàn 82 Không Vận đã dẫn trung đội mình dọc bờ sông Hương để tìm vũ khí địch có thể chôn lại sau khi rút lui. Trung Sĩ Reuben Torres thấy một vật thò lên khỏi mặt cát. Đó là một cái khuỷu tay. ‘Bọn tôi nghĩ chắc đây là một cái huyệt’ – Phil Gioia kể – ‘mà địch chôn người chết của họ sau khi rút lui khỏi Huế.’ Trung Sĩ Torres nói, ‘ta đào chỗ này lên xem.’ Chúng tôi thấy thi thể đầu tiên là một phụ nữ, mặc áo trắng, quần đen, hai tay bị trói ngoặt ra sau và bị bắn vào gáy. Bên cạnh là đứa bé, con bà ấy, cũng bị bắn. Thi thể tiếp theo cũng là một phụ nữ. Lúc đó thì đã rõ, đây không phải là xác quân Bắc Việt hay Việt Cộng” (The Vietnam War-Ken Burns, tập 6, xem từ phút 58:14).

Những phụ nữ này, cùng con cái họ, có nằm trong “thành phần” mà “nhân dân đã căm thù quá lâu?” Vì sao họ bị giết? Họ có tội gì? Đây không phải là cái chết giữa những người cầm súng ở hai bên chiến tuyến mà là sự giết chóc thường dân. Một cuộc thảm sát man rợ và tàn ác. “Cái giá” mà Huế phải trả trong Mậu Thân không hề “nhẹ” và rất không “công bằng.” Nó là tội ác chống lại loài người và những kẻ gây ra phải gọi là tội phạm chiến tranh. Nó cũng chẳng thể gọi là “điều đương nhiên… đã tự động để mà cái lòng căm thù đã đẩy cái mức đó,” như lời Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nó là một cuộc say sưa giết chóc có hệ thống và có tổ chức.

Ai chịu trách nhiệm?

Trong cuộc phỏng vấn ngày 20 Tháng Năm, 2017, ông Nguyễn Đắc Xuân kể: “Họ lập ra một cái đoàn, gọi là ‘Đoàn sinh viên quyết tử,’ mà tôi là trưởng cái đoàn đó… Tôi tổ chức học quân sự, thành ra ba đại đội, làm thành một tiểu đoàn… Thì trong cái đội đó, cái đoàn sinh viên quyết tử đó, chả bắn được ai, mà cũng chả làm cái gì ai, nhưng nó gây ra một cái tinh thần sinh viên, mà dám vũ trang để mà chống Mỹ, để mà chống Thiệu-Kỳ…”

Dù không biết “Đoàn sinh viên quyết tử” của ông Nguyễn Đắc Xuân có “bắn được ai” hoặc “làm gì ai” không, nhưng có điều chắc chắn rằng chiến dịch Mậu Thân là một kịch bản được chuẩn bị chu đáo với những kế hoạch cụ thể và phân công cá nhân cụ thể. Những bài báo miêu tả chi tiết “chiến công Mậu Thân” đã thuật rõ điều này. Việc tiêu diệt cho bằng hết “ngụy quân, ngụy quyền” để “xây dựng” một chính quyền mới sau “giải phóng” là một “chủ trương” của Ba Đình.

Như được Lê Duẩn phác thảo, Mậu Thân không chỉ là chiến dịch quân sự. Mục tiêu lớn nhất là cướp chính quyền. Điều đó đã dẫn đến chiến dịch khủng bố và cuối cùng đưa đến cuộc thảm sát. Giết ai và ai đi giết đã nằm trong kế hoạch được soạn từ nhiều tuần hoặc nhiều tháng trước khi chiến dịch nổ ra. Việc Huế bỗng đốt pháo nhiều hơn để người dân không phân biệt được tiếng súng với tiếng pháo đã cho thấy kế hoạch được lên chi tiết như thế nào.

Con hào xung quanh Kinh Thành Huế trong Chiến Tranh Việt Nam ngày 13 Tháng Ba, 1968. Cuộc giao tranh kết thúc với việc lực lượng Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa chiếm lại thành phố từ tay Việt Cộng. (Hình: Central Press/Hulton Archive/Getty Images)

Trong “Huế 1968: A Turning Point of the American War in Vietnam” (ấn hành 2017), tác giả Mark Bowden đã ghi lại một phần trong danh sách 22 trang đánh máy (mà ông tìm được trong Kho Lưu Trữ Quốc Gia Hoa Kỳ), liệt kê các mục tiêu cần “tiêu diệt”:

-Nhà thờ Phú Cam.

-Khoa Luật Đại học Huế.

-“Xa,” một cảnh sát Quảng Trị sống ở đường Thống Nhất gần giao lộ chữ Y cách đường Lê Văn Duyệt vài căn.

-“Soi,” trung sĩ nhất Sư Đoàn 1 Bộ Binh Ngụy, ở đường Thống Nhất, gần căn nhà bằng đá và tiệm may.

-Cao Thọ Xá, ác ôn, dân Phú Ổ, làng Hương Chu, thị trấn Hương Trà. Bỏ làng, về sống ở đường Thống Nhất gần cửa Chánh Tây. Đêm đêm, bọn chính quyền từ các làng kế bên về nhà hắn đánh bài và ngủ lại.

-Tiệm sửa đồng hồ đường Thống Nhất, đối diện xéo Phòng Tuyển Quân. Bọn chính quyền từ các làng kế bên tụ tập về đây ngủ.

-Hồ Thị Kim Loan, làm cho Cơ Quan Phát Triển Nông Thôn. Nhà ở đường Trịnh Minh Thế gần trạm xe buýt Nguyễn Hoàng.

-Nhà hàng Lạc Thành ở đường Đinh Bộ Lĩnh, bên ngoài cửa Thượng Tứ. Bọn mật vụ và cảnh sát thường đến đây ăn uống.

-Tiệm sửa radio ở số 3 đường Trần Hưng Đạo. Chủ là Tôn Thất Vũ, con của Tôn Thất Kế, đảng viên Đại Việt…

Cầm danh sách trong tay, những “anh hùng ngã tắt,” như cách nói của ông Phan Nhật Nam, đã tổ chức các cuộc lùng sục gieo rắc kinh hoàng. Những kẻ “hối hả hưởng cho hết cái uy quyền què cụt trong giây lát” không chỉ là những thanh niên “sớm giác ngộ” hoặc Việt Cộng nằm vùng. Có cả dân giang hồ. Một trong những người như vậy là Mai Văn Ngụ, ở Thới Lai, vốn khét tiếng với “nghề” ăn cướp; tống tiền; đâm thuê chém mướn. Từng xộ khám nên Ngụ hận thù cảnh sát.

Khi “giải phóng về,” Ngụ “lột xác,” đổi tên thành Mai Văn Hòa. Được “cách mạng tin tưởng” giao nhiệm vụ, Ngụ hăm hở lập thành tích truy tìm những kẻ “có nợ máu với nhân dân,” nhân tiện “xử” luôn những kẻ thù của mình, trong chính quyền lẫn giới giang hồ. Trong vài vụ, đích thân Ngụ đứng xem cuộc hành quyết ngay trước nhà nạn nhân… sau sự kiện Mậu Thân, Ngụ trốn theo “quân giải phóng” nhưng sau đó bị bắt và bị đày Côn Đảo; sau 1975, đương sự trở về Huế và được xem như một “anh hùng cách mạng” – dẫn lại từ “Huế 1968,” Mark Bowden.

Vì “chỉ đạo ở trên” là tiêu diệt sạch chính quyền “cũ” để “giải phóng hoàn toàn” Huế nên đã xảy ra các vụ bắt bớ tràn lan và giết chóc vô tội vạ. Cứ là “thành phần ngụy quyền” thì bắt hoặc giết, bất luận có “ác ôn” hay không. Trường hợp gia đình bà Nguyễn Công Minh là một ví dụ.

Bà kể, lúc 2 giờ sáng sau Giao Thừa, một nhóm Việt Cộng cầm AK đến gõ cửa. Cha bà sợ hãi kêu anh cùng chú của bà lẻn cửa sau đi trốn. Việt Cộng đòi xem căn cước và hỏi cha bà làm gì. Ông là phó quận trưởng quận Triệu Phong ở Quảng Trị, sắp nghỉ hưu. Sáng Mùng Một, họ quay lại, dẫn ông đi “thẩm cung.” Sáng Mùng Hai, họ lại đưa ông đến trường tiểu học Vỹ Dạ để tra hỏi. Đến Mùng Ba, họ yêu cầu ông gói ghém đồ dùng cá nhân và đi “học tập cải tạo 10 ngày.” Ông mất biệt từ đó.

Một năm sau, một Việt Cộng chiêu hồi khai với tỉnh trưởng Thừa Thiên rằng ông ta tận mắt chứng kiến một cuộc thảm sát, tất cả đều bị chôn sống, và ông biết chính xác hố chôn. Đến Xuân Ổ, người ta tìm thấy một hầm có bảy xác, tất cả đều bị trói và đều bể sọ. Việc tìm kiếm được mở rộng sang các vùng lân cận.

Mùa Hè khô hanh chỉ toàn cát phủ nhưng cứ chỗ nào có cỏ tươi thì nơi ấy có xác. Lên Phú Tứ, sau một tháng, tìm được thêm 250 xác. Hầu hết đều bị bể đầu, trói cánh khuỷu, với tư thế quỳ và chết chụm vào nhau. Gia đình bà Minh vẫn cố gắng tìm xác người thân. Tìm cho đến Tháng Chín, 1979… Cha bà Minh bị bắt đi đâu và bị giết ở đâu? Không ai biết.

Ai trực tiếp “chỉ đạo” và “duyệt” các kế hoạch “giải phóng” Huế? Ai lên danh sách “tìm diệt” và tổ chức “tìm diệt?” Phải có một hoặc nhiều người nào đó. Và (những) người đó phải là dân địa phương. Những thông tin này đã bị giấu nhẹm. Những bài báo “ca ngợi chiến công” hoặc các hội thảo từ hàng chục năm nay, trong đó có “Hội thảo khoa học cấp quốc gia ‘Cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 bước ngoặt quyết định và bài học lịch sử,’ tổ chức ngày 29 Tháng Mười Hai, 2017, đã không bao giờ dám nhắc đến điều này. Bên cạnh sự hoan lạc chiến thắng là một sự hèn hạ rợn người.

Ai chịu trách nhiệm lớn nhất với vai trò đầu não trong kế hoạch “xóa sổ” toàn bộ hệ thống chính quyền địa phương để xây dựng chính quyền mới là một bí ẩn lớn nhất của sự kiện Huế-Mậu Thân. Những bàn tay vấy máu đồng bào đã vội vã được chùi. Những “chứng cứ ngoại phạm” hấp tấp được bày ra. Ông Lê Khả Phiêu, người mà hồi chiến dịch Mậu Thân là chính ủy kiêm trung đoàn trưởng Trung Đoàn 9, có trách nhiệm gì không?

Một bài báo mang tựa “Gặp lại cựu Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu” (Tiền Phong, 11 Tháng Mười Một, 2012) có đoạn: “Đêm 24-2-1968, quân ta được lệnh rút khỏi Huế. Khi rút phải đưa hết thương binh ở phẫu tiền phương lên rừng để tiếp tục điều trị… Đồng chí (Lê Khả Phiêu) nhận trách nhiệm trước Quân Khu rằng, không riêng Trung Đoàn 9 mà cần phối hợp với các trung đoàn bạn khác… cùng với nhân dân thành nội Huế làm nhiệm vụ vận chuyển anh em thương binh vượt vòng vây lên căn cứ. Chính sách thương binh là đây. Tình người, tình đồng chí đồng đội là đây”…

Ừ thì đây: Một bài báo khác, đề tựa “N. Vietnamese Die Chained to Their Gun Posts” của ký giả Fred Emery đăng trên Times of London ngày 16 Tháng Hai, 1968, viết rằng ông thấy hai thi thể lính Bắc Việt đã bị xích vào cột điện với khẩu súng máy (“Huế 1968,” Mark Bowden).

Những câu chuyện bi thảm về chiến tranh Việt Nam đáng lý không nên nhắc lại. Nhưng, khi mà những oan hồn chiến tranh còn chưa được giải và những bàn tay nhuốm máu còn chưa được rửa với sự thành khẩn ăn năn để chắp lạy nén nhang trước vô số cái chết oan ức thì liệu mọi thứ có thể bỏ quên hoặc để vùi lấp vào bụi lịch sử? Chúng ta sẽ nói gì với thế hệ trẻ, để giải thích tại sao cả thành Huế lại chít khăn tang để làm giỗ cho hàng trăm oan hồn, trả lời sao với con cháu rằng lý do gì ông bà cha mẹ anh chị cô chú mình bị giết và ai giết? Cho đến giờ, vẫn còn có màn vỗ tay cười cợt trước những dải khăn tang.

Nếu người ta tiếp tục khạc nhổ những bãi đờm nhơ nhớp vào lịch sử và giẫm đạp lên xác chết chiến tranh trong đó có cả chiến sĩ đồng đội mình thì những câu chuyện này vẫn cần được nhắc lại, không phải để khinh bỉ, không đáng và cũng chẳng cần, mà để cho thế hệ trẻ hiểu được cuộc chiến “giải phóng dân tộc” nó đầy dãy tội ác như thế nào, để họ hiểu dối trá và bưng bít cũng là một tội ác, và để họ nhận thức rằng những hành động kinh tởm đó đừng bao giờ lặp lại với đồng bào và dân tộc mình.

Năm 2018 nhân 50 năm sự kiện Mậu Thân, một vở kịch do Sân Khấu Kịch Hồng Vân thực hiện; hơn 400 đầu tư liệu “50 năm – một mùa xuân lịch sử” được ra mắt; một cuộc “tọa đàm giao lưu nhân chứng lịch sử” mang tên “Thành Đoàn tham gia chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968” được thực hiện; một chương trình cầu truyền hình về “bản hùng ca Mậu Thân” được tổ chức (có sự tham gia của Trần Hiếu, Quang Thọ, Tạ Minh Tâm, Thanh Thúy, Anh Bằng, Hạ Trâm…).

Xem lại tất cả những bộ phim về chiến tranh Việt Nam và những hình ảnh liên quan Mậu Thân, không thấy có một cuộc “hưởng ứng” nào của “đồng bào” cả. “Hậu Mậu Thân” là những nhát cuốc chôn người thân và những nhát xẻng đào kiếm người nhà. Đó là sự kiện mà vô số gia đình miền Nam lẫn miền Bắc phải làm giỗ cho người thân chết trận Mậu Thân. Thay vì “hân hoan” “hát trên những xác người,” có lẽ cần tổ chức một đại lễ cầu siêu cho những người đã bị giết hoặc bị chết thảm hại khi bị đẩy vào chiến dịch thảm sát đồng bào trong sự kiện bi thảm này.

Thay vì vỗ tay và phô bày những bàn chân đạp đổ bàn thờ của những người đã chết oan ức trong sự kiện bi thảm Mậu Thân, có lẽ cần nhìn lại rằng vấn đề đâm chém vào lịch sử có giúp gì cho việc hàn gắn dân tộc hay không. Thay vì hất văng bát nhang đang cúng giỗ cho những người đã mất, có lẽ cần cúi đầu xin lỗi đồng bào, tất cả đồng bào, Bắc cũng như Nam, về những sai lầm mà Mậu Thân mang lại. Tuy nhiên, “chúng nó” – tất cả chúng nó, hơn 50 năm qua, chỉ cho thấy chúng là những sinh vật mang hình hài con người.

—–
Đọc thêm:
Hoàng Phủ Ngọc Tường, kẻ chối tay không dính máu thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế, qua đời
‘Tại sao tôi bị giết?’
Nghệ thuật chôn sống

Thứ Hai, 23 tháng 1, 2023

Tưởng niệm sự kiện 55 Mậu Thân. Nỗi đau vẫn hằn sâu trong ký ức

Tưởng niệm sự kiện 55 Mậu Thân. Nỗi đau vẫn hằn sâu trong ký ức

Tưởng niệm sự kiện 55 Mậu Thân. Nỗi đau vẫn hằn sâu trong ký ức

http://www.viettin.de/sites/default/files/super_users/img/TN%2055%20MauThan%201.jpg
 
- Thầy giáo Phạm Minh Hoàng -
 
Mỗi độ Xuân về, người Việt Nam không thể nào quên được Tết Mậu Thân 1968 hằn sâu dấu ấn th.ương v.ong t.ang tóc. Rất nhiều người dân vô tội đã phải bỏ mình trong cái mà cộng sản Việt Nam gọi là "cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân", trên khắp 17 tỉnh thành miền Nam.  
 
Lê Thanh Hải, nguyên Bí thư Thành ủy TP. HCM, nhân vật đầy tai tiếng và bị người dân Sài Gòn lên án với những thành tích tham nhũng, đàn áp những người đấu tranh và những dân oan đã từng huênh hoang: "Cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân năm 1968 đã tạo "một cú choáng đột ngột" với địch ở miền Nam…, là điểm son chói lọi của lịch sử Việt Nam."
 
Chúng ta hãy giở lại trang sử cũ, Tết Mậu Thân, để nhìn lại "những bộ lông" mà Việt cộng đã "trau chuốt" lập nên xem nó chói lọi đến độ nào và tạo đỉnh cao tới đâu, để xem "chiến công sống mãi trong lòng các thế hệ trẻ" là "đỉnh cao của chủ nghĩa", là "điểm son chói lọi" là những thành tích gì?
 
Nói đến Mậu Thân 68 trước tiên là phải nói đến Huế. Sự kiện này là nỗi k.inh h.oàng đối với người dân Cố Đô, đó là vết thương chưa khô m.áu, là vết sẹo chưa lành vẫn còn đau thốn tim can mỗi khi có ai nhắc đến.
 
Hàng ngàn dân xứ Huế đã bị quân đội cộng sản h.ành q.uyết bằng nhiều hình thức. Trong đó, có những nhà giáo, nhà tu hành, người Việt Nam cũng như ngoại quốc; có những học sinh, sinh viên; có những công chức, quân nhân về ăn Tết với gia đình. Những hình ảnh t.ang th.ương đó đã được tường thuật lại qua rất nhiều tài liệu. Tổng số thường dân ngã gục trong Tết Mậu Thân xấp xỉ 15.000 người.
 
Lẫn trong tiếng pháo n.ổ rền đón mừng năm mới, đêm 30 rạng ngày 31 tháng 1 năm 1968, Việt cộng đã đồng loạt bất ngờ tấn công 4 thành phố lớn, trọng tâm là Sài Gòn, Gia Định và Huế, 37 thị xã và hàng trăm quận lỵ, thị trấn của miền Nam. Đặc biệt tại Huế, trong 26 ngày bị lọt vào tay quân “cách mạng”, chúng đã điên cuồng sát hại biết bao người dân lành.
 
Theo những báo cáo của các cuộc cảnh sát các xã thuộc 13 quận của thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, người ta ước tính khoảng 6.000 người bị g..iết tại 22 địa điểm tìm được là các mồ c.hôn tập thể. Nơi đầu tiên tìm thấy các nạn nhân là sân trường Trung Học Gia Hội vào sáng ngày 26 tháng Hai. Mấy tháng sau, người ta tìm thấy thêm 18 nơi khác, nơi lớn nhất là ở Khe Đá Mài. Câu nói của phóng viên tường thuật về sự kiện vẫn còn đọng lại trong ký ức nhiều người: "trong nhiều ngôi làng, đầu ai cũng quấn khăn tang. Trên con đường dẫn ra nghĩa trang, màu tang trắng phủ lấp bụi đất trong tiếng gào thét, khóc than của gia đình các nạn nhân".
 
Trong bài viết đăng ngày 30/01/2008 với tựa đề "Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 – Nét đặc sắc của Chiến tranh Nhân dân", tác giả Nguyễn Mạnh Hưởng đã thú nhận: " …Quần chúng nhân dân tại thành phố Huế, quần chúng đã hăng hái tham gia vào các lực lượng chiến đấu, phục vụ chiến đấu trong thành phố. Với 26 ngày đêm chiếm giữ thành phố Huế, thắng lợi của quân dân ta là nguồn cổ vũ to lớn, tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ…". Tuy nhiên, cái mà cán bộ Hưởng gọi là "sức mạnh nổi dậy của quần chúng" thực tế đã trả lời cay đắng cho mộng tưởng.
 
Người dân Huế đã không những không nổi dậy, không hưởng ứng mà lại ùn ùn lánh nạn cùng nhau chạy về phía quân đội VNCH để được bảo vệ. Và đó mới chính là lý do khiến cho quân Việt cộng tức giận s.át h.ại người dân hòng trả thù. Nội dung kiểu này còn được thấy trong bài phỏng vấn của Hoàng Phủ Ngọc Tường sau năm 1975, đây cũng là một người có trách nhiệm lớn trong vụ t..àn sá.t Tết Mậu Thân 1968.
 
Nếu tiếp tục viết về các "thành tích" đã được thực hiện trên khắp các tỉnh thành miền Nam vào mùa Xuân 1968 thì bất tận, nhưng 55 sau biến cố tang thương, kẻ gây ra tất cả những hành động tàn nhẫn nói trên vẫn còn tung hô chiến tích của mình, vẫn còn "hát trên xác đồng bào của mình". Ngược lại, tại những nước "giãy chết", thì cách hành xử của họ lại vô cùng nhân bản.
 
Tôi còn nhớ ở Pháp có một nghĩa trang La Cambe trong vùng Normandie là nơi chôn cất trên 20 ngàn lính Đức chết trong đệ Nhị thế chiến. Nước Đức của Hitler mang quân xâm lăng Pháp, vậy mà người Pháp đối xử một cách rất văn hóa là dành cho những người này một mảnh đất để yên nghỉ ngay sau khi Đức thua trận. Không những Pháp họ dành cho những người lính Đức một nơi yên nghỉ nghiêm trang, mà họ còn tôn trọng cách thiết kế các ngôi mộ theo truyền thống Đức. Tôi muốn gửi lời khuyên chân thành đến cho bà con chúng ta khi sang Pháp du lịch nên ghé đến nghĩa trang La Cambe (trong tổng cộng 218 nghĩa trang rải rác khắp nước Pháp) để thấy cái "4000 năm văn hiến" của chúng ta hiện nay như thế nào.
 
Phải nói, cùng là người Việt Nam máu đỏ da vàng mà 48 năm sau khi chấm dứt chiến tranh, người ta đối xử với nhau tàn nhẫn quá!
 



Thứ Hai, 7 tháng 2, 2022

Thấy gì từ "lời sám hối" của Hoàng Phủ Ngọc Tường?

< A >
Hương Khê (Danlambao)
- (Một nén nhang cho các nạn nhân Huế-Mậu Thân 1968).

Sự kiện mấy ngàn người dân Huế bị thảm sát đẫm máu hồi Tết Mậu Thân 1986 đã làm chấn động dư luận trong nước và thế giới trong nhiều thập niên qua. Nay hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, cứ mỗi khi tết đến xuân về, khi hệ thống tuyên truyền của đảng bật hết công suốt để ca ngợi cái gọi là chiến thắng vẻ vang của Tết Mậu Thân 1968, thì những ký ức rùng rợn ấy lại ập về, vết thương ấy lại đang bị xát muối, và rỉ máu trong lòng người dân VN.

Đến nay một trong số những kẻ đầu sọ chỉ huy cuộc thảm sát ấy đã lên tiếng.

*

Hôm 10/02/2018, trên trang cá nhân của nhà văn Nguyễn Quang Lập, có đăng lá thư “sám hối” Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT), với tựa đề: “Lời cuối cho câu chuyện quá buồn”.

Trong thư, HPNT viết: “Năm nay tôi 81 tuổi, và tôi biết, còn chẳng mấy hồi nữa phải về trời. Những gì tôi đã viết, đã nói, đã làm rồi trời đất sẽ chứng nhận. Dầu có nói thêm bao nhiêu cũng không đủ. Tốt nhất là im lặng bằng tâm về cõi Phật. Duy nhất có một điều nếu không nói ra tôi sẽ không yên tâm nhắm mắt. Ấy là câu chuyện Mậu thân 1968”…

Qua lá thư, HPNT công nhận 2 sai lầm, đó là “nhận lời ông Burchett và đoàn làm phim "Việt Nam một thiên lịch sử truyền hình,” trả lời phỏng vấn với tư cách một nhân chứng Mậu thân Huế 1968, trong khi tôi là kẻ ngoài cuộc”.

Sai lầm thứ 2 là HPNT “đã nhận vơ thành tích mà ông chỉ nghe qua lời kể của người khác làm công trạng của mình trong vụ thảm sát này. Ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng”.

Và bây giờ ông ấy “xin thành thật nhìn nhận về hai sai lầm nói trên, xin ngàn lần xin lỗi”(1).

Khi mới đọc qua lá thư, với những lời lẽ nghe có vẻ thống thiết đầy sự ân hận, người ta rất dễ hiểu lầm, là ông ấy đã đưa trời, phật ra chứng giám và biết sám hối. Vậy có thể là những lời thành thật, và HPNT không dính líu đến vụ thảm sát này.

Nhưng hãy bình tĩnh đọc kỹ, chúng ta sẽ thấy đây là một âm mưu của kẻ lưu manh đang tìm cách chối tội, và đầy rẫy những lời dối trá. Đến tận phút cuối cùng, HPNT vẫn cố che đậy tội ác của mình và đồng bọn đối với đồng bào Huế bằng một lá thư được viết với ngôn từ khôn khéo, khiến nhiều người hiểu lầm. Trong thư, HPNT vẫn ngoan cố cho rằng vụ thảm sát đồng bào Huế là do “quân nổi dậy” quá hăng say khi chiến thắng, chứ không phải do chủ trương của đảng CSVN, cho thấy bản chất lưu manh và lươn lẹo của những tay đồ tể cộng sản là không bao giờ thay đổi, là ngậm máu phun người.

Nên biết rằng, để chuẩn bị cho chiến dịch Mậu Thân 1968, phía cs Bắc Việt đã chuẩn bị trước đó cả năm trời. Nào là điều quân, ém quân, vận chuyển xe cộ, vũ khí đạn dược và lương thực… vào các vị trí tập kết.

Ngày 19-10-1967 (nhằm ngày 16 tháng 9 âm lịch năm 1967), đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam đưa ra lời tuyên bố của nhà nước VNDCCH, tự nguyện ngưng bắn từ 01G:00 sáng giờ Hà Nội ngày 27/1/1968 (nhằm ngày 27 tháng chạp 1967), đến 01G:00 sáng giờ Hà Nội ngày 3-2-1968, tức trong 7 ngày.

Chính phủ lâm thời CHMNVN cũng tuyên bố ngưng bắn như trên.

Nhưng thật bất ngờ: Khi nhân dân miền Nam đang háo hức đón giao thừa mừng năm mới trong yên bình theo lời hứa của Vẹm, thì trền toàn bộ miền Nam VN bị cs đồng loạt tấn công. Và khói lửa ngút trời từ thành thị đến nông thôn đã cướp đi sinh mạng hàng chục ngàn người dân miền Nam thân yêu.

Ngày 26/3/1968, thành phố Huế bị “giải phóng” và bị chiếm giữ trong 25 ngày. Và những vụ thảm sát đẫm máu đã xảy ra như mọi người đã biết.

Năm 1981, trong cuộc trả lời phỏng vấn đoàn làm phim "Việt Nam một thiên lịch sử truyền hình”, với tư cách một nhân chứng Mậu thân Huế 1968, HPNT vừa câu trước coi “Tất cả những tội lỗi do chính Mỹ gây ra”; Câu sau lại “do quân đội cách mạng đã phải thi hành bản án tử hình đối với những kẻ chống đối”. Cuối cùng lại đổ tội cho Mỹ-Ngụy:

“Những nấm mồ, những xác chết đó là ai? Là chính nhân dân đã bị bom của mỹ thả xuống giết chết trong những cuộc phản kích… Trong số những người bị giết đó, hiển nhiên có những người do du kích, do quân đội cách mạng đã phải thi hành bản án tử hình đối với những kẻ chống đối. Khi chúng tôi vào nhà, họ đã bắn chúng tôi bị thương. Những người đó phải giết tại chỗ. Trong số đó có viên Phó Tỉnh trưởng Huế. Còn những trường hợp khác do nhân dân đã căm thù quá lâu. Chúng nó đã làm cho tất cả gia đình họ phải đi ở tù ra ngoài đảo. Đến khi cách mạng bùng lên, họ lấy lại thế của người mạnh, họ đi tìm những kẻ đó để trừ như trừ những con rắn độc, mà từ lâu nay nếu còn sống họ tiếp tục gây tội ác. Người ta lấy lại món nợ ấy là công bằng. Sự căm thù và thi hành bản án như vậy là nhẹ…

Những nấm mồ, những xác chết đó là ai? Là chính nhân dân đã bị bom của mỹ thả xuống giết chết trong những cuộc phản kích. Ví dụ như một bệnh viện nhỏ ở chợ Đông Ba, một trái bom đã làm 200 người chết và bị thương. Tôi đã đi trên những đường hẻm ban đêm. Tôi tưởng là bùn, tôi bấm đèn lên thì đó là máu lầy lội như vậy…”(2)

Qua cuộc trả lời phỏng vấn này cho thấy sự tàn ác và khát máu đến tận cùng của những người cs, mà HPNT là đại diện. HPNT cho rằng những người bị chính quyền VNCH bắt bớ, tù tội, thì nay với sức mạnh của kẻ chiến thắng, khi trở về, họ có quyền giết hại nhân dân Huế để trả thù, đó là lẽ công bằng. Họ coi việc giết hại đồng bào Huế là điều hiển nhiên.

Linh mục Phan Văn Lợi, một người Huế chính gốc, nhận xét như sau: “Thư đó nói rằng Mỹ đã dội bom 1 cái bệnh viện gần Đông Ba và có 200 người chết. Thời đó tôi đã 17, 18 tuổi rồi. Tôi biết rằng cả cái khu Đông Ba đó không có cái bệnh viện nào lớn cả. Khu Đông Ba đó là 1 cái chợ sát bên bờ sông. Bệnh viện là bệnh viện Huế, bệnh viện Quân đội Nguyễn Tri Phương.

Về cái gọi là “chiến thắng vang dội Mậu Thân 1968” là gì?

Là một cố đô Huế với bao di tích lịch sử của đất nước bị “những người cách mạng” tàn phá tan hoang.

Là toàn bộ linh mục và tu sĩ, chủng sinh tại Đại Chủng viện Xuân Bích-Huế, bị bắt đi và không còn ai sống sót trở về.

Đó là tất cả mấy trăm con người, là những linh mục và nhân dân cả lương lẫn giáo đang trốn trong nhà thờ Phú Cam, bị đồng chí của HPNT bắt đi và mãi mãi biệt tăm.

Là khi khai quật những hố chôn tập thể, đa số những người chết đều đang bị trói gập hai tay ra sau lưng.

Là hầu hết nạn nhân đều bị chết bởi những đòn thù, đập vỡ sọ hoặc chém ngang lưng.

Là những đống xương trắng với đầu lâu người chết ở khe Đá Mài và nhiều nơi khác.

Tất cả những cái đó tập hợp lại thành chiến công vĩ đại mà HPNT “do quá hăng say nên ra sức bảo vệ”.

Nếu quả thật HPNT biết sám hối, lẽ ra điều ông nên làm là chấp nhận quá khứ vì không ai có thể thay đổi được quá khứ. Cách thanh minh tốt nhất là phản tỉnh! Xác nhận tội lỗi do ông và bè đảng của ông gây ra thảm sát Mậu Thân ở Huế.

Qua lời biện bạch lươn lẹo và bịp bợm của HPNT, cho thấy cái gọi là khí tiết của những người cs chỉ là trò hề. Chứng tỏ bản chất của chúng là “đến chết nết không chừa”. Đó là bản chất của những kẻ lưu manh và hèn hạ. Nếu như HPNT nói đó là nhận vơ công trạng giết người của kẻ khác, chứng tỏ những cái gọi là “chiến thắng vẻ vang” của họ là không có thật.

HPNT nói “ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân”.

Vậy là HPNT đã thừa nhận có thảm sát Mậu Thân 1968, nhưng kẻ gây ra là do “quân nổi dậy”, chứ không phải chủ trương của đcs?

Nếu không vì mấy chục năm chịu quả báo ngồi trên xe lăn như một đống thịt, bắt vợ con phục dịch thì làm gì có những lời gọi là “sám hối” muộn màng như vậy.

Người xưa có câu: “con chim sắp chết thì tiếng kêu thương. Con người sắp chết thì lời nói phải”.

Câu này không đúng với HPNT, vì đến lúc gần chết mà vẫn còn quanh co gian dối.

Với bài viết biện bạch như trên,HPNT đã mang xăng đi dập lửa.

HPNT không đáng xách dép cho người thanh niên trẻ tuổi kiên cường Trần Hồng Phúc. Trước tòa án, Trần Hồng Phúc nói: “Các ông có thể xét xử tôi 10 năm, 20 năm, nhưng chế độ này có thể tồn tại đến mức đó không?… Ngày nay các ông xử tôi thì ngày mai nhân dân sẽ sử các ông”.

Phải công nhận nhà văn Nguyễn Quang lập đã rất thành thật khi đưa ra nhận xét này: “Cái “liếm môi huyền thoại” và ánh mắt láo liến của anh trước cuộc phỏng vấn thì tôi không thể hiểu nổi, dù thế nào hành vi ấy cũng thật đáng ngờ”.

Ngay cả khi Nguyễn Quang Lập khi tìm mọi cách chạy tội cho HPNT, cũng nghi ngờ sự thành thật của ông ta.

Chỉ có những người xảo tra mới có cái lưỡi và ánh mắt lấm la lấm lét như thế khi nhìn người đối diện.

Đúng là “cà cuống chết đến đít vẫn còn cay”.

Chú thích:



Tags :

 

Thứ Sáu, 5 tháng 3, 2021

Anh là một người HÙNG của QLVNCH.

 Cố Trung Tá Võ Vàng Khoá 17/TVBQGVN

Về Cố Trung Tá Võ Vàng Khoá 17/TVBQGVN

Có thể là hình ảnh về 1 người, đang đứng và quân phục
Bạn và 329 người khác
86 bình luận
37 lượt chia sẻ
Thích
Bình luận
Chia sẻ
một lời thầm hứa từ 39 năm qua
TG:Xtanker20
Kính gửi chị Đường,
phu nhân cố Trung tá Võ-Vàng.
Tôi không còn nhớ mình đã từng kéo bàn phím chiếc Computer ra bao nhiêu lần nữa, không phải để ‘check’ những ‘mail’ của bạn bè xa gần gửi đến hay tìm kiếm vài thông tin cần thiết hầu bổ sung cho cái ‘nghề tay trái’ đã nuôi sống bản thân và gia đình trong mấy chục năm qua, mà như muốn viết lên một điều gì đó, một sự kiện gì đó đã xảy ra trong những đoạn đường đời mình đã đi qua. Nhưng rồi, cứ mỗi lần nhìn đăm đăm vào chiếc màn hình trắng xóa thì đầu óc lại không nhớ ra được mình phải gõ lên đó những gì dù vẫn có cảm giác như có ai đó đã và đang hối thúc tôi ghi lại những gì đã chìm sâu dần trong ký ức qua bao năm tháng dài tôi vừa phải vật lộn với cuộc sống hằng ngày, vừa phải lạng lách tránh những rình rập vô hình mãi đeo đẳng tôi cho đến bây giờ...
Rồi bỗng dưng, như một cơn mưa bất chợt giữa ngày hè nóng bức, trong cuộc gọi chuyện trò bình thường gần đây nhất với một người vừa là bạn, vừa là đàn anh trong quân ngũ, ở xa, không biết có phải từ những ký ức anh ấy đang cùng với một người bạn gợi lại về quãng đời lao tù trong những nơi Cộng Sản gọi là Trại Tù “Cải Tạo” mà thực chất là Trại Tù Khổ Sai dành cho những Sĩ Quan của chế độ cũ, anh đột nhiên nhắc đến tên của ‘một người’. Lời nhắc này giống như tiếng gõ rất mạnh khiến ký ức tôi mở toang cánh cửa đã vô tình đóng kín một lời hứa sau lời xin lỗi với ‘người ấy’ từ hơn 38 năm qua. Và tôi chợt liên tưởng đến những lần muốn kể lại điều gì đó từ lâu đang cứ lảng vảng trong tiềm thức khiến tôi mãi ray rức, canh cánh trong lòng....
Lời xin lỗi kèm theo lời hứa với ‘người ấy’ đã chỉ được nói lên trong thầm lặng trong khi tôi và anh Chí (Nhà trưởng thuộc Khối 1 của Trại Tù Kỳ Sơn vào khoảng giữa năm 1977) được lệnh trực tiếp từ tên “Quản giáo” Nhà phải tường trình vụ ‘người ấy’ bị bắn chết, hoàn toàn trái ngược với sự thật, ngược lại với những gì chúng tôi đã nghe bằng chính tai và chứng kiến bằng chính đôi mắt của mình.
Từ trại tạm giam tại Điện Bàn, Quảng Nam vào thượng tuần tháng 4/1975, sau khoảng gần 2 tháng và cũng sau khi Sài Gòn thất thủ, chúng tôi bị chuyển lên Trại Kỳ Sơn, Bồng Miêu (Tam Kỳ, Quảng Tín). Từ lúc xe lăn bánh, chúng tôi (số Sĩ quan cấp Tá) đinh ninh sẽ bị đưa ra các trại giam ngoài Bắc (theo tin đồn). Nhưng khi ra đến Quốc Lộ 1 thì đoàn xe quẹo trái hướng về nam khiến chúng tôi không thể nào đoán được mình sẽ bị đưa đến đâu. Dọc đường, tôi chỉ biết theo dõi những điểm đoàn xe đã đi ngang qua và nhớ lại rất rõ từng địa danh, vì là vùng trước kia đơn vị tôi đã từng vượt qua trong những lần hành quân (từ cuối 1969 đến giữa 1971).
Đoàn xe đến Tam Kỳ thì quẹo phải về hướng núi và tiếp tục trên con đường đất rộng khoảng 6-7 mét, lạ hoắc với tôi. Lúc này tôi chỉ còn theo dõi cảnh vật gần xa dọc 2 bên đường mà thôi.
Khoảng hơn 50 phút sau, (hồi đó, hầu hết tù binh chúng tôi đều còn mang đồng hồ, vì tại trại Điện Bàn hằng ngày chỉ nghe giảng thuyết về tư tưởng Cộng Sản chứ không bị buộc lao động) đoàn xe chở chúng tôi dừng lại trước một khu trại đã có sẵn mấy chục căn nhà lợp tranh và chúng tôi được lệnh xuống xe vào trại.
Chúng tôi bị chia thành từng toán, mỗi toán gốm 25 người, không phải theo danh sách đã có sẵn mà do ngẫu nhiên, tức là tự động sắp thành từng hàng dọc và ai muốn bước vào hàng nào thì cứ việc, miễn sao đủ 25 người là được. Sau đó, một người trong mỗi toán mới ghi tên họ những người trong toán, làm thành từng danh sách. Và mỗi toán sẽ ở trong cùng một căn nhà; mỗi 4 Nhà (ngoài Bắc gọi là Buồng) thì thành một Khốip. Và Trại chúng tôi có tên là Trại 1. Sau đó mới biết Tổng Trại Tù Kỳ Sơn gồm cả Trại 2,3 và 4 nằm quanh quẩn cách Trại 1 chừng 3 hay 4 km do Bộ đội quản lý. Ngoài ra còn có một Trạm xá nằm đối diện hơi chênh về phía phải với Trại 3 nhưng ở phía bên kia con lộ chính, sâu vào khoảng 30 mét.
Nhà chúng tôi thuộc Khối 1 gồm hầu hết là Trung tá và Thiếu tá, chỉ có 4 hay 5 Đại úy. Tôi chỉ còn nhớ một số tôi còn ấn tượng do thường chuyện trò, cùng toán đi lao động hay ngủ cạnh nhau trên một dãy sạp bằng tre:
- Cấp Trung tá có Ngô-Hoàng (SĐ2BB, người Huế), Ng-văn-Tố (từng là Tỉnh trưởng Phú Yên, người Huế), Ng-văn-Thành (Liên đoàn trưởng Địa phương Quân, người Huế), Võ-Vàng (gốc Biệt Động quân, người Quảng - gọi chung cho Quảng Nam và Quảng Ngãi), Thuật-Xáng (CTCT/QĐ 1, người Huế ), Cẩn (P.Binh, người Quảng-Trị), Liên (K.Quân, người Nam), Chí (Truyền tin, người Bắc), v.v...
- Cấp Thiếu tá có Khoa ( P.Binh, người Huế), Bảo (P.Binh, người Bắc), Cảnh (B.Binh SĐ 2, người Huế), Cúc (Ban 2 Tiểu khu Q.Nam, người Quảng ), Hiển (C.Sát, người Huế), tôi (Kỵ Binh, người Huế),v.v...
- Và cấp Đại úy có Chí, Hóa (C.Binh, người Huế), Ninh (Ban 2 C.Khu Q.Tín, người Quảng ), v.v...
Mỗi Nhà bầu một Nhà trưởng, và chúng tôi đã bầu anh Chí (để phân biệt với anh Chí cấp Trung tá, chúng tôi thường gọi anh là Chí ‘nhỏ’). Mỗi Nhà do 1 Quản giáo trách nhiệm. (theo như tôi để ý, hầu hết Quản giáo đều là người Quảng). Riêng về Khối thì anh Ngô-Hoàng (do Cán bộ chỉ định) làm Khối trưởng Khối 1. Từ đó chúng tôi dần dần làm quen với nhau và cũng từ nơi này chúng tôi bắt đầu nếm mùi vị của tù lao động khổ sai.
Hàng tháng, chúng tôi phải “học tập Chính trị”, thường thì theo từng toán gồm ½ Nhà (khoảng 12 hay 13 người), do” Quản giáo” hướng dẫn. Có lúc ½ nhà học chính trị và ½ Nhà còn lại đi lao động. Và mỗi 2 hay 3 tháng thì toàn Trại học tại Hội trường do 1 tên chính trị viên từ cấp cao hơn đến phụ trách.
Khoảng hơn 3 tháng sau, gia đình, thân nhân được phép đến thăm tù nhân theo định kỳ mỗi tháng 1 lần tại một căn nhà tranh lớn và tương đối rộng, dựng trên một ngọn đồi thấp, chung quanh là những bụi cây nhỏ cao khoảng hơn 1 mét, ngay ngả ba của đường vào trại 1,2 và 3 (Trại 3 nằm trên cùng một con lộ với Trại 1), cách Trại 1 chúng tôi khoảng 3 km, gọi là Trại Tiếp tân.
Cũng nhờ vào những lần thăm viếng này mà chúng tôi được cung cấp thông tin về tình hình bên ngoài của một số địa phương kèm theo một ít thức ăn, nhất là đường (loại bánh đường đen hay những miếng đường màu vàng, thứ mà chúng tôi thèm, nhất là trong thời gian lao động nặng).
Khoảng hơn 1 năm sau, sự kiện đầu tiên đã xảy ra, không phải tại các Trại tù mà ngay tại Trạm xá của Tổng trại :
Bác-sĩ Phạm-văn-Lương (nghe nói trước năm 1975 đã từng cầm lựu đạn đến tại cửa tòa nhà Quốc Hội để chống đối Chính Phủ) đã tự vẫn bằng thuốc chống sốt rét ‘Chloroquine’.
Sau này một vài người trong nhà chúng tôi được vài tù nhân phục vụ tại Trạm xá kể lại về cái chết vật vã bằng loại thuốc này thật khủng khiếp: trước khi chết, anh đã điên cuồng búng người từ sạp này đến sạp khác, quằn quại rồi co quắp một hồi mới tắt thở. Họ cho biết thêm là khoảng 1 tháng trườc đó, sau lần gần nhất được vợ con đến thăm, anh Lương đã tỏ vẻ buồn bực, ít nói hơn. Điều suy đoán tương đối hợp lý cho lý do này là từ những thông tin do gia đình những tù nhân quen biết và sống gần gia đình anh Lương đã cho biết sự thật rất phũ phàng : vợ anh phải đi bán dạo quanh chợ Cồn (Đà Nẳng) để nuôi con. Rồi những lời bàn tán của tù nhân đã đến tai anh. Và thế là ‘Xã hội lý tưởng’ trong anh rách nát, ‘Thiên đường Cộng Sản’ trong anh vỡ vụn. Vì không chịu được cú sốc này, anh đã tự kết liểu đời mình.
Sự kiện thứ 2 đến từ những buổi “học Chính trị”, nói đúng hơn là những lần phải kể lại lý lịch và cái được mô tả là ‘tội ác’ của tù nhân đối với ‘Nhân dân’ và “Cách mạng”. Mỗi lần học, chúng tôi phải khai lại lý lịch, không phải viết trên giấy mà phải tự phát biểu. (nhờ vậy mà về sau, chúng tôi biết anh Ngô-Hoàng có thân nhân tập kết đã vào Nam với chức vụ cao; anh Võ-Vàng có người anh là “Trung tá Bộ đội” và anh Cúc có cha là “Đại tá Bộ đội”. Tất cả những thông tin bổ sung này có lẽ là do gia đình họ đã cung cấp trong những lần ‘thăm nuôi’).
Riêng về mục kể ‘tội ác’ thì chúng tôi, nhất là những người đã ở trong đơn vị tác chiến, phải nhớ thêm và nói cụ thể hơn số lượng Việt cộng (du kích, đơn vị địa phương hay bộ đội chính quy) đã bị chúng tôi giết trong những lần hành quân nào, tại những nơi nào, vào những thời điểm nào. Dĩ nhiên, chúng tôi vẫn nhớ chính xác một số yếu tố, còn về số lượng thì phải khôn ngoan nói càng ít càng tốt để tội được nhẹ hơn. Riêng về anh Vàng, khi anh phát biểu, ngoài tên “Quản giáo” của Nhà chúng tôi còn có tên “Quản giáo” của Nhà bên cạnh (cũng là người Quảng) cũng bước qua tham gia. Giọng điệu tên này thì ghê gớm và chứa nhiều hận thù hơn.
Qua những lần đó, tôi mới biết thêm thông tin cá nhân của anh Vàng (khóa 17 VBQGĐL), trong đó những chiến công của anh hồi còn làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 21 thuộc Liên đoàn 1 Biệt Động Quân và sau đó là Trung đoàn trưởng Trung Đoàn 4 hay 5 gì đó thuộc Sư Đoàn 2 BB đã rất vang lừng. (Tôi thì nhập ngũ sau anh mấy năm và chỉ hành quân ở vùng Bắc đèo Hải Vân đến Bến Hải. Và thời gian đơn vị tôi nằm ở Đà Nẵng đã hành quân chung với Liên đoàn 1 BĐQ tại vùng Thăng Bình, Quế Sơn và Bình Giang, Bình Dương năm 1970 thì tôi không gặp được anh mà chỉ gặp anh Khang - Tiểu Đoàn 39, anh Thiết và anh Thưởng - Tiểu Đoàn 21 và 37 và Trung tá Hiệp là Liên Đoàn trưởng). Do đó, mũi dùi của đám “Quản giáo” này nhắm vào anh nhiều nhất (có lẽ do vùng hành quân của đơn vị anh thuộc Quảng Nam và Quảng Ngãi).
Vào khoảng gần giữa năm 1977, trong buổi học chính trị cho toàn trại tại Hội trường, tên Chính trị viên (người Quảng), không biết từ cấp cao nào đến phụ trách, bô lô ba la gần cả giờ về đường lối chính sách của Đảng, tương lai đất nước, v.v... Rồi đến mục khuyên tù nhân thành thật khai báo về ‘nợ máu’ chúng tôi đã gây ra. Nó đã chuyển cụm từ ‘tội ác’ thành ‘nợ máu’, nghe càng rùng rợn hơn. Tôi tự hỏi: ‘Như vậy, nợ máu thì phải trả bằng máu sao ?’
Sự kiện thứ 3 đã xảy sau buổi học chính trị toàn trại chỉ khoảng 2 tuần.
Hôm đó là ngày Chúa Nhật và cũng là ngày gia đình tù lên thăm nuôi. Khoảng 8 giờ sáng, Nhà chúng tôi có anh Vàng được tên vệ binh Bốn đến gọi ra sắp hàng tại cổng trại cùng với số anh em tù từ các Nhà và Khối khác để nó dẫn ra Trại tiếp tân. Toán thăm nuôi đầu tiên thường được gọi là Toán 1. Khoảng 30 phút sau, tôi cũng được gọi tên ra sắp vào một toán khác gọi là Toán 2 và được một tên vệ binh người Bắc dẫn đi. Khi toán chúng tôi ra đến Trại Tiếp tân thì mạnh ai nấy kiếm chỗ riêng để cùng gia đình trò chuyện, một số ngồi trong trại, một số chọn những bụi cây quanh đó ngay phía bên ngoài trại cách khoảng 10 mét. Thời gian thăm nuôi chỉ được kéo dài 1 giờ theo qui định. Và hôm nay thì tên Quản giáo phụ trách Trại Tiếp tân là người Bắc, không biết thuộc Khối nào.
Chỉ khoảng gần 15 phút sau, tôi nghe tiếng tên Bốn gọi tập họp Toán 1 để nó dẫn về. Và khoảng 3 phút sau, tôi lại nghe tiếng quát tháo khiến anh em đang ngồi quanh đó đều đứng lên, còn tôi thì bước nhanh đến đó, thấy khoảng 8 người đang đứng sắp hàng chờ điểm danh và kiểm tra những thứ gia đình họ mang lên thăm nuôi, riêng anh Vàng thì đang đứng đối mặt với tên Bốn, nói :
- “Tôi đã xin phép anh Quản giáo được thăm nuôi thêm một xuất nữa.”
Tên Bốn quát :
- “Anh không chịu vào sắp hàng thì tôi bắn đấy!”
Nói xong nó cầm súng, lên đạn rắc rắc và chỉ thẳng vào anh Vàng. Anh em quanh đó, ngay cả tôi, đều nghĩ rằng anh Vàng sẽ phải nhịn nhục và đứng vào hàng. Không ngờ anh dùng 2 tay banh ngực áo và nói lớn :
- “Muốn bắn thì bắn đi!”
Cũng may tên “Quản giáo” người Bắc đến vừa kịp, nói ngay:
- “Anh Vàng đã xin phép tôi thăm nuôi thêm một xuất. Và anh ấy sẽ về theo Toán 2”.
Tên Bốn hạ súng xuống một cách miễn cưỡng, đôi mắt nó vẫn đỏ ngầu trên nét mặt đầy hậm hực, khoát tay ra lệnh cho Toán 1 bắt đầu đi về, không nhớ đến việc điểm danh và kiểm tra mấy chiếc bị của tù. (Thật ra thì chỉ là toán ít người, còn việc kiểm tra thì có thể thực hiện sau khi toán vào cổng trại.)
Cũng chính từ sự kiện này, tôi để ý đến tên Bốn nhiều hơn, vì chưa từng nghĩ rằng một tên Việt Cộng (không biết là du kích hay bộ đội chính quy vì màu sắc áo quần của nó là màu xám mà áo quần bộ đội là màu olive) mặt mày còn non choẹt, tuổi đời tối đa khoảng 22-23, nhỏ con, mà lại ‘khát máu’ như vậy. Và cũng chính từ đây, tôi thán phục anh Vàng nhiều hơn. Thán phục vì anh đã làm được điều mà tôi, hay đúng hơn là chúng tôi, không thể làm được, dù cho hành động của anh có xuất phát từ lòng tự ái hay sự bộc phát nào đó thì cũng vẫn thể hiện sự bất khuất của một Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trước kẻ thù trong hoàn cảnh cá chậu chim lồng này.
Thú thật thì trước đó tôi đã có phần ngưỡng mộ anh về những chiến công anh đã kể lại trong những buổi học chính trị nên tìm cách trò chuyện với anh nhiều hơn, dù biết anh rất ít nói. (người tôi thân nhất trong Nhà là anh Tố và vì anh lớn tuổi hơn nhiều nên tôi thường gọi anh là ‘Bố’). Có lẽ anh cũng hơi thích tôi do tôi là người hay kể chuyện vui, bông đùa và cười lớn tiếng thoải mái nhất trong Nhà. Nhờ vậy mà tôi biết được vợ anh Vàng, tên Đường, là Giáo viên trước 1975.
Thế rồi, sau khoảng hơn 1 tháng, lúc này trong năm, thời tiết vào khoảng cuối mùa Hè nên không quá nóng như tại những vùng Huế, Quảng Trị và Đông Hà, một phần là do các trại tù đều nằm trong vùng núi, vào một buổi sáng, sau khi anh Chí ‘nhỏ’ (Nhà trưởng) đi họp nhận công tác cho Nhà về, vác theo một bao bố chứa những con ‘dao tông’ và ‘rựa’ và cho biết hôm nay cả Nhà sẽ lao động tập thể. phát quang tại vùng Cò Bay (đường lên Mỏ vàng Bồng Miêu). Chúng tôi ăn sáng với chế độ (LTS:Khẩu phần) ít hơn 1/3 với bữa ăn trưa, rồi lần lượt bới theo cơm trưa chứa trong ‘lon Gô’ (loại bằng nhôm đựng sữa bột Guigoz của Hà Lan dành cho trẻ sơ sinh đến 2 tuổi, khuấy tan với nước nóng để bú bằng bình hay bằng ly, tách), một số thì dùng ‘gà men’ của Quân đội được thân nhân mang lên trong những lần thăm viếng tại ‘Trại Tiếp tân’. Rồi lần lượt xuống ‘Nhà bếp’ lấy nước sôi đổ vào bidon’(bình nhựa chứa nước của Quân đội). Những người trẻ như tôi, anh Vàng, anh Thành, Chi, Hóa, Ninh, Cảnh thì nhận ‘dao tông’(loại dao dài gần 5 tấc với cán dính liền bằng sắt dùng để chặt những cây nhỏ bằng bắp tay), người lớn tuổi thì nhận ‘rựa’ (loại dao dài chừng 7 tấc gồm luôn cán bằng gỗ dài khoảng 3 tấc, đầu rựa có mấu cong xuống, dùng để chặt tre, phát quang lau sậy, vót lạc, chẻ mây, và nhiều công dụng khác nữa); rồi lần lượt mài dụng cụ trên 2 tảng đá nhỏ đặt sau Nhà (chúng tôi vác chúng lên từ suối để tiết kiệm thời gian phải xuống suối mài trước khi đi lao động). Tiếp đến, chúng tôi được chia thành 2 toán, mỗi toán có 12 người. (riêng anh Cúc thì thuộc thành phần không lao động ngoài trại được do gót chân đã bi thương trước khi vào Trại nên thường ở nhà trực phòng, - một vài người trong Nhà của chúng tôi nghi ngờ anh làm ‘antenne’ vì chính bản thân tôi đã bị 2 lần viết ‘Kiểm điểm’ do có người báo cáo tôi phát ngôn bừa bãi trong những lúc chuyện trò với anh em ngay tại Nhà. Ví dụ như tôi đã đổi câu châm ngôn của họ : ‘Cho không lấy, thấy không xin’ thành ‘Không cho cũng lấy, không thấy cũng xin !!’...).
Đa số người trong Toán 1 chúng tôi có cấp bậc Thiếu tá và Trung tá trong đó có anh Võ-Vàng, cấp Đại úy chỉ có anh Chí và Hóa. Hành trang lao động là chiếc bị vải tự tạo có quai mang vai (có người được thân nhân gửi lên bao đeo mặt nạ ngừa hơi độc của Quân đội), chứa bình nước, bữa ăn trưa, võng nylon hay vải và tấm nylon dùng làm áo mưa.
Đúng 07:30, Nhà chúng tôi bắt đầu di chuyển theo hàng dọc ra cổng trước của Trại, ngay con lộ lên Bồng Miêu, (cổng sau dẩn thẳng ra con suối cạn, rộng khoảng 40 mét, chảy ngoằn ngoèo theo dảy núi phía đối diện, chỉ dùng cho những lúc đi lao động nặng, riêng lẻ hoặc toán ít người và là nơi tắm rửa, giặt giũ), quẹo phải lên hướng vùng Cò Bay theo con lộ đất rộng khoảng 4-5 mét. Dẩn đầu là tên vệ binh Bốn (người Quảng) và sau cùng là một vệ binh (người Bắc, tôi không nhớ tên). Cả hai đều mang AK-47. (Thường thì khi tù binh đi lao động ngoài trại với những toán trên 5 người đều có vệ binh đi theo, khi thì 1 người, khi thì 2 người).
Thời tiết hôm đó vào buổi sáng vẫn còn mát mẻ dù mặt trời đã lên khá cao nhưng bị dãy đồi cao phía đông che khuất. Trong khoảng hơn 2 năm, chúng tôi đã từng đi trên con lộ này không dưới 20 lần nên cảnh vật chung quanh chẳng còn gì xa lạ nữa, ngoại trừ đám lau sậy và cây nhỏ dọc mé trái lộ đã được phát quang ngày càng xa dần lên hướng Cò Bay.
Chúng tôi đi khoảng hơn 3 km, đến hết ranh đám lau sậy đã được phát quang, thì tên vệ binh Bốn hô lớn bảo dừng lại và kêu anh Chí lên ra lệnh gì đó. Mấy phút sau thì nghe Chí bào toán 2 tạt về mé trái con lộ và chỉ định anh Ninh làm trưởng toán với nhiệm vụ phải phát quang dọc bên trái lộ lên hướng Cò Bay. Từ điểm này lên hướng Tây nam thì vẫn còn đầy lau sậy cao hơn đầu người hơn 1 mét.
Toán 1 của chúng tôi cứ tiếp tục đi xa hơn khoảng hơn 300 mét thì được lệnh dừng lại và nhận nhiệm vụ phát quang phía bên trái con lộ, sâu vào khoảng 40 mét rồi chuyển hướng dọc theo con lộ lên hướng núi có Mỏ Vàng. Ra lệnh xong, tên vệ binh Bốn và tên vệ binh người Bắc tiếp tục đi thẳng về phía trước. Theo kinh nghiệm từ những lần đi lao động và những khi được giao nhiệm vụ đi theo phát quang cho toán địa chất lên các lò của Mỏ Vàng Bồng Miêu, (thường thì 2 tù binh đi theo để phát cây dọn đường cho toán địa chất gồm 3 hay 4 Kỹ sư có mang súng ngắn ) tôi đoán khoảng 80 mét nữa là đến chiếc cầu xi măng nhỏ, rộng khoảng 2 mét, dài khoảng 8 mét bắc qua con suối thường hầu như cạn nước vào mùa hè, vì phía trước khoảng 30 mét đã hiện ra khúc quanh quẹo chênh về trái.
Phía bên bờ Nam của suối cũng đầy lau sậy dày đặc chạy dài khoảng 300 mét thì đến vùng trống trải có những căn nhà gạch đã rêu phong, tốc mái, đổ nát trên 60%, cạnh một nhánh suối nhỏ vẫn còn những bụi trúc vàng rất đẹp hai bên bờ. Đặc biệt nơi này còn sót lại vài đoạn đường rầy rộng khoảng 8 tấc và dài khoảng 20-30 mét. Nghe đám địa chất nói thì đây là những di tích hồi Pháp khai thác mỏ vàng.
Chúng tôi kiếm những cây nhỏ sát con lộ, chặt nhánh nhỏ, chừa một đoạn ngắn chỉa ra để treo những chiếc bị và bắt đầu dàn hàng ngang phát trống lau sây sâu vào chân dảy đồi khoảng 40 mét rồì đổi hướng phát dọc theo con lộ.
Dù có được khoảng 10 phút để uống nước và giải lao sau khoảng 1 giờ lao động (nhờ anh Chí ‘lớn’ và anh Tố vẫn luôn mang theo đồng hồ đeo tay trong túi quần. Còn phần lớn thì đã gửi về cho vợ bán lấy tiền nuôi con), chúng tôi cũng cố làm sao để phát quang một diện tích đáng kể trong ngày, nếu không thì mấy tên vệ binh sẽ báo báo là lao động không tích cực và bị làm kiểm điểm. Mặt trời lên cao dần, giáng xuống đầu và lưng chúng tôi những luồng nóng rát hừng hực khiến mồ hôi liên tục búng ra đẫm ướt cả áo và mặt như đang đi trong mưa. Cho đến khi mặt trời gần đứng bóng, chúng tôi nghỉ khoảng 1 giờ để ăn bữa trưa chứa trong bị mang theo. Mỗi tụm 2 hoặc 3 người cố tìm một bóng cây nào quanh đó để tránh nắng nhưng quả thật rất khó. Chỉ còn cách chui đại vào những lùm sậy rồi dùng rựa phạt đứt sậy cao ngang đầu người và dùng chiếc võng mang theo căng phủ lên phía trên tạo bóng dim bên dưới và mở lon cơm chừng 1 chén với ‘mắm cái’ và ngấu nghiến, mơ màng tưởng tượng một bữa ăn thịnh soạn để đánh lừa bao tử. Ăn xong thì xé giấy báo vấn một điều thuốc ‘rê’, dựa lưng vào bụi sậy, vừa phì phà vừa trao đổi vài nhận xét bâng quơ cho có chuyện mà thôi.
Khoảng 1 giờ chiều, chúng tôi tiếp tục gò mình vào công việc còn dang dở. Đến khoảng 2 giờ, chúng tôi mới nghỉ giải lao được khoảng 5 phút thì tên vệ binh Bốn và tên vệ binh người Bắc từ hướng Bồng Miêu đi về. Tên Bốn bèn nói lớn :
“Anh Chí cho tôi 1 người lên phía trước để chặt những cây lau về bó làm chổi quét”.
Nghe tiếng nói, chúng tôi ngừng tay và nhìn Chí. Dĩ nhiên, nếu chặt lau sậy thì phải dùng rựa, vì khi chặt được một số lau thì dùng mấu rựa kéo về đằng sau. Tôi thấy Chí chỉ vào anh Xáng đang cầm cây rựa cạnh anh và nói :
- “Anh Xáng theo mấy anh vệ binh lên phía trước chặt lau đi !”.
Anh Xáng bèn bước đến một cây nhỏ gần đó lấy chiếc bị hành trang có mang nước theo để uống. Bỗng nhiên tên vệ binh Bốn cản lại và nói :
- “Anh lớn tuổi rồi nên chặt không nhanh. Anh đổi cây rựa cho anh này nè - vừa nói nó vừa chỉ tay vào anh Vàng đang cầm dao tông”.
Thế là anh Xáng và anh Vàng đổi dụng cụ cho nhau và anh Vàng đến lấy hành trang rồi đi theo 2 tên vệ binh. Chúng tôi đều nghĩ rằng đây chỉ là chuyện bình thường... rất bình thường. Hợp lý nữa là khác. Và chúng tôi lại tiếp tục công việc, cố làm sao để khi tối đến, sau khi cơm nước, họp bình bầu cá nhân xuất sắc tại Nhà mà khỏi bị làm kiểm điểm. Thật ra thì những hình thức lao động toàn Nhà như thế này, việc nhận xét ‘tích cực’ hay ‘tiêu cực’ đều do sự cao hứng của vệ binh đi theo mà thôi.
Khoảng hơn 10 phút sau, chúng tôi bỗng nghe 3 tiếng nổ đoàng đoàng đoàng liên tiếp, nhưng từng phát một, ở phía trước, chắc chắn là từ súng AK của 2 tên vệ binh. Tôi buột miệng cười nói: - “Chắc là con nai nào xui xẻo đã bị hạ rồi. Tối nay thế nào mỗi người cũng đều có 1 miếng thịt bồi dưỡng”.
Nghe thế, tôi thấy mấy anh còn lại cũng mỉm cười tỏ vẻ đồng tình. (Vì thỉnh thoảng chúng tôi cũng đã từng được bồi dưởng bằng thịt heo rừng hay nai).
Đúng là đã hơn 2 năm rối mới nghe lại tiếng súng nên lúc đầu ai cũng hơi hốt hoảng, ngay cả bản thân tôi đã từng là dân tác chiến cũng có chút bàng hoàng, nhưng chỉ trong vài giây thoáng qua. Chúng tôi lại tiếp tục công việc.
Khoảng 5 phút sau, tên vệ binh Bốn, từ phía trước trở về, cách chúng tôi chừng 10 mét, đã kêu lớn :
- “Anh Chí ! Kêu thêm một anh nữa lên phía trên này ngay, không cần mang theo dụng cụ”.
Mọi người lại dừng tay. Riêng tôi thì thầm nghĩ : ‘Không lẽ mình đã đoán đúng ?’ Chí liếc nhìn quanh và đột nhiên gọi tôi (đang đứng trong hàng ngang cách xa anh 2 người về phía bên phải, gần con lộ):
- “Anh X... bỏ dao xuống và theo tôi”.
Vẫn là điều bình thường... rất bình thường !! Tôi và Chí bước nhanh để theo kịp tên vệ binh Bốn. Đúng là chỉ khoảng 70 mét, chúng tôi đã thấy chiếc cầu xi măng bắc qua con suối và tên vệ binh người Bắc đang đứng trên cầu. Chúng tôi đến cách cầu chừng 6-7 mét (tại điểm này thì mé trái con lộ đã vừa mới được phát quang sâu khoảng hơn 1 mét, còn sót lại một cây cao, nhỏ và thẳng, trên cành thấp nhất còn lủng lẳng chiếc bị của anh Vàng) thì tên Bốn chỉ tay xuống suối, phía bên trái cầu và nói :
- “Hai anh xuống dưới đó đi !”.
Chúng tôi cũng vẩn đinh ninh một con nai đã bị bắn hạ ngay dưới suối nên vội tạt trái, vừa bước vừa nhìn xuống chân, thận trọng để khỏi dẩm phải những gốc sậy bén. Đến được bờ suối thì cảnh tượng trước mắt hiện ra giống như một chiếc búa tạ, đập tan vụn những ý nghĩ lạc quan đang nhảy múa trong đầu óc chúng tôi rồi nhét thay thế vào đó sự sợ hãi, thảng thốt : cách chúng tôi khoảng 3 mét, không phải là xác con nai mà là anh Vàng đang nằm sấp, mặt úp xuống bờ cát của lòng suối còn ẩm nước, tay phải hơi giang ra và bàn tay còn nắm lơi một phần cán rựa, chân hướng về phía chúng tôi.
Tôi cảm thấy như có một luồng khí lạnh từ nổi sợ len lỏi vào dọc xương sống, còn Chí thì mặt mày tái nhợt hẳn ra, cùng ngước nhìn lên tên Bốn đang đứng trên cầu, cách chúng tôi khoảng hơn 4 mét theo đường huyền hình tam giác. Có lẽ thấy chúng tôi ngập ngừng không dám bước tiếp, nó dùng súng quơ quơ ra dấu bảo chúng tôi đi tiếp đến chỗ anh Vàng. Tôi, dù muốn dù không, là dân tác chiến nên tốc độ lấy lại bình tĩnh chỉ trong mấy giây, bèn đi trước đến sát chân anh Vàng và thấy ngay trên lưng áo của anh đã bị 3 lổ thủng nằm dọc từ hơi dưới vai trái xuống gần thắt lưng bên phải, giống như 3 trái bi trên bàn bi-da Pháp nằm theo thế ‘giò gà’ vậy. Tôi bảo Chí đang đứng phía sau :
- “Chí hãy lên phía đầu của anh Vàng rồi cùng nhau lật ngửa anh ra mới khiêng lên trên con lộ được.”
Chí và tôi vừa lật ngửa anh Vàng ra thì đột nhiên anh mở đôi mắt, thấy anh Chí và thểu thào kêu lên :
- “Chí ơi !...”
Có lẽ trước khi chết, anh đã cố gom hết sức lực để nói lên điều gì đó nhưng chỉ được hai từ ngắn ngủi này, cho nên, dù là thều thào nhưng có lẽ cũng đủ cho 2 tên vệ binh trên cầu nghe, hay có lẽ chúng đã thấy đôi môi anh mấp máy và ngỡ anh vẫn còn sống, muốn nói gì đó, nên tên Bốn hét lớn :
- “Hai anh tránh xa ra !”
Tôi giật mình phóng người ngược ra phía sau và té ngửa, còn Chí thì chạy lui rất nhanh. Tôi vừa ngồi dậy và liếc nhìn lên cầu thì một loạt đạn tóe lửa từ súng AK của tên Bốn nhắm vào đầu anh Vàng. Tôi thấy đầu của anh giật giật mấy cái rồi im luôn. Tôi lại đảo mắt nhìn lên cầu lần nữa và thấy tên Bốn, sau khi bắn xong, thản nhiên mang quai súng lên vai cùng tên vệ binh người Bắc song song bước nhanh về hướng cũ. Tôi vẫn ngồi như thế, ngoái nhìn theo cho đến lúc chúng đi khuất sau đám lau sậy mới đứng lên và bước đến gần anh Vàng. Trong loạt súng vừa rồi, có lẽ khoảng 2 hay 3 viên đã trúng làm nát luôn má và miệng của anh, máu chảy lênh láng. Chí thì hình như vẩn chưa hoàn hồn. Tôi bèn bảo Chí :
- “Chí ở lại đây trông chừng để tôi chạy về báo cho anh em trong toán mình biết.”
Chí bỗng nói ngay :
- “Anh ở lại đây để tôi chạy về báo tin cho.” Tôi thấy anh còn sợ nên đành gật đầu.
Chờ cho Chí đi rồi, tôi cẩn thận nhìn quanh khoảng một phút, có lẽ vì sợ tên Bốn bất ngờ quày lại tặng luôn mình một loạt đạn để bịt miệng, rồi nhìn lại anh Vàng thì thấy hai mắt anh vẫn còn mở, bèn đưa tay vuốt mắt anh mà lòng dậy lên nỗi đau buồn đã mất đi một người bạn tù, một người anh trong Quân ngũ.
Chưa đến 10 phút sau, tôi thấy mấy anh xuất hiện từ sau đám lau sậy rồi nhận ra anh Tố, anh Hoàng và anh Hóa cùng Chí đến gần chỗ tôi. Có lẽ dọc đường đến đây, Chí đã có kể lại một phần nào đó cho họ nghe nên khi đến nơi, chúng tôi chỉ cùng nhau nghĩ cách khiêng anh Vàng về. Liên tưởng đến lúc Trại có người bị bệnh không đi được thì đã được khiêng bằng võng đến trạm xá, tôi bèn đề nghị như thế và cùng Hóa chạy đến cây có treo chiếc bị của anh Vàng để lấy chiếc bị có chứa chiếc võng của anh, đồng thời chặt luôn cây này, tỉa nhánh cho trơn tru dùng làm đòn cáng. Tiếp đến, anh Tố và anh Hoàng khiêng xác anh Vàng bỏ lên võng và chúng tôi cột dây của 2 đầu võng thật chặt vào đòn cáng.
Anh Hoàng và anh Tố tình nguyện khiêng anh Vàng trước sau khi giao rựa của họ cho Chi, và tôi cùng Chí sẽ thay phiên khi 2 anh đó đã thấm mệt. Chí bèn giao 2 cây rựa của anh Hoàng và anh Tố giao luôn cho anh Hóa vác. Riêng tôi và Chí thì trên đường về sẽ tạt lại điểm chúng tôi phát quang để lấy bị của mọi người và dao tông của mình.
Anh Hoàng đứng phía đầu đòn cáng, hướng chân của anh Vàng và anh Tố ở cuối cáng, hướng đầu của anh Vàng, tôi và Chí cùng tiếp tay nhấc đòn cáng lên vai họ. Thế là 5 người chúng tôi bắt đầu lên đường. Hình như mỗi người đều đang nặng trĩu nhưng suy nghĩ có lẽ cũng hao hao giống nhau: ‘khi về đến trại thì sẽ phải làm gì đây, nói năng như thế nào đây?’ Riêng tôi, và chắc chắn là Chí nữa, thì còn thêm những lo nghĩ khác vì là những nhân chứng sống cho cái chết của anh Vàng.
Chỉ khoảng mấy phút sau, chúng tôi đã đến điểm chúng tôi đã phát quang, nhưng chẳng còn thấy bóng dáng ai cả. Tôi lên tiếng :
- “Họ đâu cả rồi ?”.
Anh Tố buột miệng trả lời :
- “Chắc họ sợ quá sau khi nghe thằng Bốn tuyên bố nên đã chạy về trước rồi.”.
Tôi hỏi tiếp :
- “Nó nói sao, Bố ?”
- “Tên Võ-Vàng đánh vệ binh để cướp súng trốn trại. Ta đã diệt nó rồi.”
Tôi và Chí loanh quanh khoảng 1 phút tìm dao tông và bị nhưng không thấy. Chí nói :
- “Có lẽ anh em đã mang về giùm rồi.”
Cũng chỉ đoán như vậy thôi, chứ ở vùng không có bóng người dân nào thì ai mà lấy mấy thứ đó chứ. Tôi và Chí bước nhanh để theo kịp chiếc võng cáng. Vừa đến ngang anh Tố thì thấy đầu của anh Vàng lắc lư theo bước chân người khiêng lệch ra khỏi vỏng, bèn vừa đi vừa banh rộng đầu võng để đầu anh lọt vào. Máu trên vùng ngực của anh hầu như đã khô, còn ở má và miệng vẫn còn rỉ, tóc và trán vẫn còn bám cát từ lòng suối khô.
Chúng tôi cứ thế lẳng lặng bước... và bước, mong sao cho nhanh về đến trại. Ngang qua điểm phát quang của Toán 2, chúng tôi cũng chẳng thấy ai nữa. Chắc họ cũng đã nghe tên Bốn nói gì và đã nhanh chân rời khỏi đó, giống như số anh em còn lại của Toán 1.
Tôi ngước nhìn lên bầu trời, lúc này có lẽ đã hơn 3 giờ chiều, nhưng nắng đã có phần dịu bớt nhờ những đám mây trắng nhỏ từ phía Tây bắc lãng đãng trôi qua, che khuất mặt trời như cố ý ngăn bớt luồng nóng hừng hực đâm thẳng vào thân xác một người đã từng vang bóng một thời, đã tung hoành trên khắp chiến trường phía Nam của Quân Đoàn 1 (vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi), nhưng lại phải lìa đời trong tức tưởi. Tôi lại tưởng tượng những đám mây kia là những thân nhân, vợ con và bạn bè, những người đã ngưỡng mộ và thương mến anh, trong những chiếc áo tang, những chiếc khăn sô, đưa tiễn anh lần cuối.
Rồi đầu anh Vàng lại lệch ra khỏi đầu võng, và với những động tác cũ, tôi lại banh đầu võng, nâng đầu anh lọt vào như cũ. Nhớ lại thì tôi đã dùng động tác này không dưới 3 lần trên đường về đến trại, vì 2 đầu võng thường bị kéo túm lại do sức nặng nhún nhẩy từ phần giữa võng. Trước đó, chúng tôi đã cẩn thận dùng phần dây võng còn thừa để buộc 2 chân anh vào một đầu võng, riêng võng ở phần đầu của anh thì không được.
Chúng tôi cứ tiếp tục bước..., bước nhanh, hình như không quan tâm gì đến thời gian và đoạn đường mình đã đi qua. Cho đến khi tôi định lên tiếng đòi thay phiên khiên cáng thì trước mắt, dảy hàng rào bằng ‘róng’ (cở cây nhỏ hơn hoặc bằng cổ tay cao khoảng 3 mét, gài chéo nhau theo hình tổ ong rào quanh trại) sát con lộ đã hiện ra phía bên trái, cách chúng tôi khoảng 60 mét, nên không lên tiếng nữa.
Chỉ khoảng hơn 5 phút, chúng tôi đã đến cách cổng trại chừng 15 mét thì tên Quản giáo Nhà chúng tôi đã đứng đó từ trước chận chúng tôi lại và bảo :
- “Các anh bỏ anh Vàng tại đây rồi vào trại đi !.”
Nhìn chênh về phía phải, chúng tôi thấy một toán tù binh, không biết thuộc Khối nào, đang đào cái huyệt cách con lộ khoảng 2 mét. Chúng tôi đoán là huyệt dành cho anh Vàng.
Anh Hoàng và anh Tố nhẹ nhàng đặt xác anh Vàng xuống sát mé phải con lộ và chúng tôi lẳng lặng tiến về cổng trại. Qua cổng trại rồi đi xuyên qua trước mặt Khối 2, tôi thấy nhiều anh em tù, một số đứng trước sân, một số trong Nhà lặng lẽ nhìn chúng tôi, trong ánh mắt họ dường như đang ẩn chứa rất nhiều câu hỏi. Về đến Nhà, tôi thấy đống dao rựa đã nằm giữa nhà, cạnh cái lỗ hình chữ nhật bề 5 bề 8 tấc, sâu 2 tấc dùng để đốt lá tươi hun khói đuổi muỗi khi đêm đến hoặc đốt củi sưởi ấm vào mùa Đông, và những chiếc bị của chúng tôi đã nằm sẵn trên phần sạp ngủ của mỗi người. Cởi bỏ áo quần lao động (quần áo của lính Bộ binh chế độ cũ được cấp phát cho tù mặc khi lao động), chúng tôi ngả người trên phần sạp của mình nằm nghỉ ngơi cho khô mồ hôi trước khi xuống suối để tắm và giặt. Riêng anh Chí thì vừa đếm vừa đùn hết số dao rựa vào trong bao bố và vác lên trả lại cho nhà kho chứa dụng cụ lao động.
Bầu không khí trong Nhà của cuối ngày lao động hôm đó bao trùm một sự tĩnh lặng hầu như tuyệt đối, giống như đang mặc niệm cho người bạn tù đã vĩnh viễn ra đi, cho một sự mất mát, thiếu vắng từ đây... chỉ còn những ánh mắt thỉnh thoảng nhìn nhau... Và thời gian cứ nặng nề trôi qua...
Bỗng nhiên, tôi nghe nhiều tiếng nói lao xao gần phía trước cửa nhà, liền nhỏm dậy xem thì thấy 3 người, hình như thuộc Khối 2, đang vừa đi ngang qua cửa Nhà chúng tôi vừa nói chuyện.
Tôi vội chạy ra hỏi với theo :
- “Mấy anh có biết họ đã chôn anh Vàng chưa không ?”
Một anh trả lời :
- “Vẫn chưa, vì phải đào một cái huyệt khác cách xa con lộ hơn 10 mét. Mấy thằng cán bộ nói cái huyệt đầu tiên nằm sát đường quá.”
Anh Tố đang nằm nghỉ, nghe thế bèn nhỏm dậy nói :
- “Như thế thì xui lắm. Ông bà mình tin rằng nếu đào huyệt thứ 2 thì thân nhân của người chết sẽ bị chết thêm một người nữa đó !”
Tôi thì chẳng biết gì về chuyện này. Anh em còn lại trong nhà cũng chỉ đưa mắt nhìn nhau, nửa tin nửa ngờ... nhưng phần nào cũng có chút lo lắng cho những người trong gia đình anh Vàng.
Rồi, như cái máy chạy theo thời khóa biểu, chúng tôi xuống suối, tắm, giặt. Sau đó, người trực cơm xuống bếp nhận cơm lên chia đều cho anh em trong Nhà. Cũng chỉ là 1 chén cơm và ‘mắm cái’ hầu như thường lệ, nhưng hôm nay dường như có thêm những giọt nước mắt nhỏ xuống từ bên trong, thẳng vào cuống họng mỗi lần nuốt 1 ngụm cơm...
Lúc này, màn đêm đang dần phủ trên Trại Tù. chúng tôi chuẩn bị họp Nhà để bình bầu cá nhân xuất sắc cho ngày lao động dở dang hôm nay. Một người mang củi vào nhóm lửa và 1 người nữa mang mấy nhành cây nhỏ có nhiều lá còn xanh để hun khói đuổi muổi. Trong ánh lửa lập lòe kèm theo khói, chúng tôi vừa bắt đầu họp thì thấy tên Quản giáo (người Quảng - tôi không nhớ tên) bước vào. Nó không ngồi lên sạp như thường lệ mà chỉ nói lớn :
- “Các anh hãy coi chừng! Cái chết của anh Vàng là sự trừng phạt cho những người muốn trốn trại đó !”
Rồi bỏ đi, một chốc sau, chúng tôi lại thấy tên Bốn đi ngang và nhìn vào Nhà chúng tôi liếc ngang liếc dọc, vai vẫn mang khẩu AK-47, nét mặt có vẻ vênh váo như vừa mới lập được một ‘chiến công’ hèn hạ chưa chừng thấy. Thật ra thì tất cả anh em cùng Nhà đều mang tâm trạng phập phồng lo sợ... sau sự kiện của anh Vàng. Riêng tôi, và chắc là với Chí ‘nhỏ’, lại càng cảm thấy thấp thỏm hơn, vì là những nhân chứng sau cùng.
Họp xong, tôi đến bên Chí ‘nhỏ’, nói :
- “Ngày mai Chí cắt tôi đi công tác theo nhóm cho bảo đảm đó !” Chí gật đầu, phần nào hiểu được ý của tôi.
Đặc biệt tối nay, sau khi họp xong, chúng tôi không ra phía trước sân, tụm 2, tụm 3, trao đổi năm điều ba chuyện bâng quơ trước khi vào ngủ, mà một số thì vẫn ngồi trên sạp, một số nằm dài, theo đuổi những suy nghĩ riêng tư của mình.
Rồi một đêm không bình thường nặng nề trôi qua. Sáng hôm sau, Chí lên nhận công tác và vác theo về một bao bố chứa toàn dao tông, và công tác hôm nay là chặt những khúc cây dài từ 4 - 4,5 mét, thật thẳng, có ngọn tối thiểu là 1 tấc 3. Thường thì đây là công tác riêng lẻ, tức là mạnh ai nấy lên rừng và lục tìm và chặt rồi vác về, nhưng Chí cũng cẩn thận dặn anh em nên đi theo từng toán 4 hay 5 người để khỏi bị vệ binh len lén đi theo và ‘diệt’ từng người trong chúng tôi như trường hợp của anh Vàng.
Cũng may đến gần trưa thì anh Tố, tôi, Ninh và Cảnh đã chặt xong cây và vác xuống sườn núi, nơi có khoảng trống khá lớn nằm trên con đường nhỏ dẫn về trại và cách trại khoảng hơn 2 km. Chúng tôi kiếm bóng mát để nghỉ ngơi và ăn trưa. Nhân lúc này anh Tố mới bảo tôi kể lại phần cuối của vụ anh Vàng bị bắn. Và tôi đã nói cho họ nghe.
Đến chiều, khoảng 4 giờ, khi vác cây về đến Nhà, chúng tôi lại thoáng thấy tên Bốn đi từ hướng Khối 2 về Khối 1 và, khi đi ngang Nhà chúng tôi, nó bước chậm lại và liếc nhìn vào. Tôi nghĩ rằng đây là điều không bình thường, dù thỉnh thoảng vẫn có vệ binh đi lòng vòng trước sân các Khối vào gần cuối ngày lao động. Nhà chúng tôi đã cố làm cho bầu không khí trở nên bình thường, nhưng thật ra vẫn không bình thường như cũ được. Mọi người có vẻ thận trọng, dè dặt, ít nói chuyện với nhau hơn. Chỉ mong thời gian sẽ xóa dần nỗi lo sợ cho những gì sẽ xảy ra kế tiếp.
Và điều không bình thường này đã đến ngay vào buổi sáng hôm sau. Khi Chí đi nhận công tác về với chiếc bao bố chứa dao, rựa trên vai. Khuôn mặt anh hơi lộ vẻ lo âu. Anh nói đại khái chỉ tiêu lao động trong ngày, rồi tiếp :
- “Hôm nay tôi và anh X... ở nhà làm công tác khác.”
Mọi người bắt đầu hoang mang, thắc mắc nhìn nhau nhưng chẳng ai buồn lên tiếng, ngay cả tôi, mà chỉ lẳng lặng ăn hết miếng bánh xốp làm bằng bột mì Liên Xô thay cho điểm tâm rồi mài dụng cụ lao động và rời khỏi Nhà.
Chờ cho anh em đi hết, tôi mới kéo Chí ra khỏi nhà để đề phòng anh Cúc nghe được, và chưa kịp hỏi thì Chí đã nói :
- “Một chốc nữa thì tên Quản giáo sẽ đến hướng dẫn chúng ta viết bản tường trình về cái chết của anh Vàng. Hình như người anh của anh Vàng là Trung tá Bộ đội đã đến Tổng trại và yêu cầu điều tra rõ chuyện này. Anh tính thế nào?”
Tôi suy nghĩ một chốc, rồi nói :
- “Viết tường trình vụ này mà do Quản giáo hướng dẫn thì chắc 2 anh em mình sẽ không nói lên được sự thật mình đã chứng kiến đâu. Bây giờ tụi mình đều như cá nằm trên thớt. Nó bảo sao thì phải viết vậy thôi.” Như một sự đồng cảm đã có sẵn, Chí gật đầu.
Chúng tôi vào nhà, nằm dài trên sạp của mình, vừa chờ tên “Quản giáo” đến, vừa suy nghĩ xem còn có cách ứng phó nào khác nữa không.
Hơn nửa giờ sau, tên “Quản giáo” bước vào, tay cầm cuộn giấy tập vở và 2 cây bút bi, bảo chúng tôi đến Hội trường và nói:
- “Hai anh hãy tường trình lại đúng y như lời vệ binh đã nói, tức là anh Vàng đã đánh vệ binh, cướp súng để trốn trại nên đã bị vệ binh bắn chết. Viết ngắn gọn thôi rồi ghi tên mình, Khối và Trại và ký tên là xong. Càng nhanh càng tốt”.
Tôi không biết Chí có ý nghĩ gì không. Riêng tôi thì thầm nói: “Anh Vàng, xin anh thứ lỗi và thông cảm cho hoàn cảnh chúng tôi hiện giờ. Nhưng tôi xin hứa với anh là sẽ kể lại toàn bộ chuyện này cho chị Đường nghe sau khi tôi được tha về!”
Chưa tới 10 phút, chúng tôi đã viết xong. Tên “Quản giáo” cầm từng tờ giấy lên đọc rồi gật đầu, nói :
- “Hai anh về làm vệ sinh quanh Nhà rồi nghỉ ngơi đi!”, rồi bước nhanh về phía cổng trại.
Khoảng 1 giờ sau, chúng tôi đã làm xong công việc được giao phó, rồi Chí thì soạn kim chỉ vá chiếc bị của anh, còn tôi thì nằm ngả người trên sạp, mắt nhìn lên trần nhà, nhưng lại không thấy trần nhà mà lại thấy hiện ra 2 hình ảnh của anh Vàng :
- Một anh Vàng với thân thể cường tráng, nở nang, tiềm ẩn một sức lực dồi dào (anh đã từng được bình bầu xuất sắc trong lao động rất nhiều lần và là người khỏe nhất Nhà), dáng người tầm thước (khoảng 1,68 mét), nước da hơi đen sạm. Điểm đặc biệt là anh có đôi mắt to, màu đen pha một chút màu nâu, đầy vẻ bướng bỉnh. Anh thường ít nói và cũng ít cười nhưng dễ tiếp cận. (Tôi chỉ thấy anh cười nhiều nhất, bằng mắt nhiều hơn bằng miệng, khi tôi kể mấy chuyện phiếm tôi còn nhớ từ cuốn ‘Truyện cười của Đặng-trần-Huân’). Còn nghe nói anh cũng có ‘nghề’ (biết võ thuật) nữa. Hình như anh không hút thuốc, nhưng vì có một vài người trong Nhà tập hút thuốc lào nên anh đã thử. Và trong những lần đầu, khi anh rít xong một hơi thì mặt anh trở nên đờ đẫn, mắt mơ màng khiến anh em không nhịn được cười...
- Và Một anh Vàng trong tư thế nằm sấp nơi lòng suối khô của vùng Cò Bay, Bồng Miêu với 3 lỗ đạn ở lưng, rồi trong tư thế nằm ngửa với má và miệng banh nát sau loạt đạn thứ hai, với cái đầu lắc lư trên đầu võng... : kết quả từ thủ đoạn đê hèn của một chế độ đầy âm mưu thâm độc...
Hai hình ảnh này cứ luân phiên chợt ẩn chợt hiện không ngừng trước mắt tôi như chồng chất thêm trong lòng tôi nổi xót xa, mất mát một người bạn tù đáng kính.
Anh đã nằm xuống nhưng tên Võ-Vàng của anh sẽ không bao giờ chết trong lòng chúng tôi. Anh vẫn là Người hùng, một Ngôi sao sáng chói trong Binh chủng Biệt Động Quân, trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Vì hoàn cảnh không cho phép gặp trực tiếp để kể lại cho chị Đường và các cháu nghe, tôi xin ghi lại những dòng này thực hiện lời thầm hứa với anh Vàng sau 39 năm.
Tôi cũng thành thật xin lỗi đã gợi lại những buồn đau của gia đình chị mà có lẽ phần nào đã phôi pha theo thời gian, nhưng đồng thời cũng giúp chị và các cháu luôn giữ vững niềm tự hào đã có một người chồng, người cha kiêu hùng, bất khuất...
Tôi cũng cảm ơn anh Tấn đã nhắc tôi ghi lại sự kiện này, và nhờ anh (Cựu Trung tá, Trung Đoàn phó Trung Đoàn 2/SĐ 3 BB) tìm cách liên lạc và chuyển giùm, không chỉ cho chị Đường mà còn cho những người có tên đã được đề cập trong bài viết để nhận những phản hồi thông qua anh.
Xtanker20
Cựu Tù Nhân Chính Trị .
Có thể là hình ảnh về 1 người, đang đứng và quân phục
Bạn và 329 người khác
86 bình luận
37 lượt chia sẻ
Thích
Bình luận
Chia sẻ